Những tính năng làm thuốc của Dâu tằm

Cây Dâu cho lá nuôi tằm ra hoa kết trái vào tháng 2, 3. Đến mùa Thu thì trái ít và nhỏ hơn. Giống Dâu vườn lưu niên cho quả nhiều, to, ngọt và chất lượng tốt hơn. Trồng Dâu lấy quả phải chọn giống Dâu ít lá, lá nhỏ và mỏng

Thông tin chung

Tên thường gọi: Dâu
Tên khác: Dâu tằm
Tên tiếng Anh: mulberry
Tên khoa học: Morus alba L.
Thuộc họ Dâu tằm - Moraceae.

Quả dâu có tên Hán là Tang thậm hoặc Tang thậm tử, Lá dâu là Tang diệp, Cành dâu là Tang chi, Tổ kén bọ ngựa trên cây dâu là Tang kí sinh.

http://cfs9.tistory.com/image/12/tistory/2008/07/25/14/14/4889613ead350
Dâu tằm - Morus alba, ảnh theo cfs9.tistory.com

Mô tả

Cây gỗ lớn cao tới 15m, màu nâu hay vàng vàng. Lá mọc so le, phiến xoan dài 5-10 (20)cm rộng 4-8cm, gốc hình tim hay gần như cụt, chóp tù hay hơi nhọn, có thuỳ trên các nhánh tược còn non, có răng, với răng hình tam giác, tù, khía rộng; gân gốc 3, các gân bên đạt tới chiều dài của phiến. Hoa cùng gốc hay khác gốc, các hoa cái thành bông đuôi sóc hơi dài hơn rộng, nhưng không quá 2cm. Quả trắng hay hồng, thuộc dạng quả phức gồm nhiều quả bế bao trong các lá đài đồng trưởng và trở thành mọng nước.

Cây Dâu nuôi tằm thì nhiều lá, quả ít và nhỏ, vị chua. Cây Dâu lưu niên thì quả nhiều, to, đỏ, tím mọng, ngọt. Mỗi loại có đặc tính riêng tuỳ theo mục đích sử dụng. Loại Dâu lưu niên được trọng dụng hơn.

Mùa hoa tháng 4-5, quả tháng 6-7.

LaDauTam.jpg image by Tranai
Tằm đang ăn lá dâu
ảnh theo i15.photobucket.com

Cây Dâu cho lá nuôi tằm ra hoa kết trái vào tháng 2, 3. Đến mùa Thu thì trái ít và nhỏ hơn. Giống Dâu vườn lưu niên cho quả nhiều, to, ngọt và chất lượng tốt hơn. Trồng Dâu lấy quả phải chọn giống Dâu ít lá, lá nhỏ và mỏng. Ở miền Bắc, Công ty Đông dược Bảo Long đã chọn quả Dâu Ba Vì (Hà Tây) để sản xuất Vang dâu cho chất lượng cao. Dâu càng chín (tím đen) càng thơm ngọt, bớt chua chát, nhiều chất bổ dưỡng.

Bộ phận dùng

Lá dâu - Folium Mori, thường gọi là Tang diệp. Vỏ dâu - Cortex Mori, thường gọi là Tang bạch bì; Cành dâu - Ramulus Mori, hay Tang chi. Quả Dâu - Fructus Mori, hay Tang thầm; Tổ bọ ngựa cây Dâu - Ootheca Mantidis, hay Tang phiêu tiêu, Tầm gửi cây Dâu - Ramulus Loran thi, hay Tang ký sinh.

Nơi sống và thu hái

Nguyên sản của Trung Quốc, được trồng rộng rãi ở các nước châu Á. Đã được trồng ở nước ta từ lâu đời khi người ta biết nuôi tằm. Nhiều bộ phận của cây Dâu được thu hái làm thuốc. Có những bộ phận có thể thu hái quanh năm. Tầm gửi chỉ gặp ở những cây gỗ lớn. Dùng tổ bọ ngựa chưa nở, phải đồ chín rồi sấy khô.

Thu hoạch dâu chín phải nhẹ tay, không để dập nát, gây lên men, không chất đống, thiếu không khí, dễ gây giảm chất lượng của các chế phẩm. Chế biến quả Dâu bằng nhiều cách, từ đơn giản đến phức tạp: nước ép Dâu, cao Dâu, Dâu ủ men, Dâu hấp, mứt Dâu, bột Dâu, Dâu xào thịt… Trong các chế phẩm đó, có khi chỉ dùng trái Dâu, có khi phối hợp thêm nhiều thức ăn hay các vị thuốc Đông y khác để phục vụ cho mục đích điều trị khác nhau.

Thành phần hoá học

Theo Viện Dược liệu Bộ Y tế: Trong quả Dâu: Nước 84,71%; Đường 9,19%; Axit 8%; Protit 0,36%; Tanin; Vitamin C; Caroten. Trong đường có glucoza, fructoza. Trong axit có axit malic, axit sucinic. Một số tài liệu Trung Quốc cho biết: Cứ 100g quả Dâu có 1,6g anbumin, 0,4g chất béo, 9,6g chất đường, 20mg caroten, 30mg canxi, 33mg phốtpho, 0,3mg sắt.

Lá Dâu chứa inokosteron, ecdysteron, morocetin, umbelliferon, scopoletin, scopolin, a-, b- hexenal, trigonellin và nhiều acid amin. Còn có chất cao su, tanin, caroten, vitamin C, pentozan, đường. Vỏ rễ Dâu chứa các acid hữu cơ, tanin, pectin và những hợp chất flavonoid bao gồm morin, mulberrin, mulberronchromen, cyclomulberrin, cyclomulberrochromen. Quả Dâu chứa đường (glucose và fructose), acid malic và acid succinic, protein, tanin, vitamin C, caroten, sắc tố màu đỏ anthocyanidin. Tổ bọ ngựa trên cây Dâu chứa protid, chất béo, muối sắt, calcium.

Tính vị, tác dụng

Trong Đông y, trái Dâu được dùng từ đời Đường. Các công trình nghiên cứu cho thấy Dâu ta và Dâu Tầu có giá trị nuôi tằm và làm thuốc tương đương nhau.

Theo Trung dược học bản thảo: Trái Dâu tằm có công dụng bổ thận, dưỡng huyết, khu phong, sáng mắt, tăng lực, chữa táo bón kinh niên; theo Bản thảo cương mục Lý Thời Trân: Trái Dâu giải được độc của rượu, lợi cho cả khí, cả thuỷ trong cơ thể.

Lá Dâu (Tang diệp) có vị đắng, ngọt, tính bình có tác dụng tán phong, thanh nhiệt, lương huyết, sáng mắt. Người ta nhận thấy lá Dâu có tác dụng trị liệu đái đường lại ức chế trực khuẩn thương hàn, tụ cầu khuẩn.

Vỏ rễ Dâu (Tang bạch bì) đã cạo sạch lớp vỏ ngoài, phơi hay sấy khô, có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh phế nhiệt, lợi thuỷ, chỉ khái, hạ suyễn, tiêu sưng.

Cành Dâu non (Tang chi) đã phơi hay sấy khô có vị đắng nhạt, tính bình, có tác dụng trừ phong, lợi các khớp, thông kinh lạc, tiêu viêm, hạ nhiệt, giảm đau.

Quả Dâu (Tang thầm) có vị ngọt, chua, tính mát, có tác dụng dưỡng huyết, bổ gan thận, trừ phong.

Tầm gửi cây Dâu (Tang ký sinh) có vị đắng, tính bình, có tác dụng mạnh gân cốt, lợi huyết mạch, hạ hồng cầu, an thai, xuống sữa, lợi tiểu.

Tổ bọ ngựa cây Dâu (Tang phiêu tiêu) có vị ngọt mặn, tính bình, có tác dụng ích thận, cố tinh, lợi tiểu.

Công dụng, chỉ định và phối hợp

http://1.bp.blogspot.com/_o2RIaXNcPUY/RsFbPvg_USI/AAAAAAAAAAM/CqcFRywUlVo/s320/Blackberries.jpg
Dâu ăn quả
ảnh theo 1.bp.blogspot.com

Dược điển Trung Quốc có ghi là lá Dâu, vỏ Dâu, cành Dâu, quả Dâu đều có công năng thanh phế nhiệt, trừ phong thấp, bổ gan thận. Người ta dùng vỏ trị phế nhiệt, thổ huyết, thủy thũng; cành trị phong thấp, thấp khớp viêm, đau lưng gối; lá trị phong nhiệt cảm mạo; vỏ rễ trị viêm gan mạn tính, thiếu máu, thần kinh suy nhược và dị ứng.

Ở Philippin, người ta dùng Dâu chữa rò, mụn mủ, bướu và bệnh ngoài da, các vết cắn, vết thương và bệnh lậu.

Ở Ấn Độ, người ta dùng quả làm thuốc mát trong cơn sốt và còn dùng làm thuốc chữa viêm họng, khó tiêu và bệnh u sầu; vỏ được dùng làm thuốc xổ và trị giun.

Lá dâu (Tang diệp)

Lá Dâu non có thể vò ra thái nhỏ nấu canh lẫn với các loại rau khác, có hương vị của rau Dền giúp ăn ngon, ngủ yên. Lá Dâu thường được dùng chữa sốt, cảm mạo do phong nhiệt, ho, viêm họng, đau răng, đau mắt đỏ, chảy nước mắt, đậu lào, phát ban, cao huyết áp, làm cho sáng mắt. Ngày dùng 6-18g, dạng thuốc sắc.

Vỏ rễ

Vỏ rễ dùng trị phế nhiệt, hen suyễn, khái huyết, phù thũng, dị ứng do ăn uống, bụng trướng to, tiểu tiện không thông. Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc.

Cành dâu (Tang chi)

Cành Dâu dùng trị phong tê thấp, đau thắt lưng, đau nhức các đầu xương, cước khí, chân tay co quắp. Ngày dùng 6-12g hay hơn, dạng thuốc sắc.

Quả dâu (Tang thậm)

Quả Dâu chín có tác dụng chữa bệnh rất tốt.

Quả dùng trị viêm gan mạn tính, thiếu máu, suy nhược thần kinh. Ngày dùng 10-15g.

Tang kí sinh

Tang ký sinh chữa đau lưng, đau mình, chân tay tê bại, động thai, sau khi đẻ ít sữa. Ngày dùng 12-20g, dạng thuốc sắc.

Người ta còn dùng nấm Dâu tức là mộc nhĩ mọc trên cây dâu và sâu dâu làm thuốc.

Tang phiêu diêu

Tổ bọ ngựa dùng chữa đi đái nhiều lần, di tinh, liệt dương, bạch đới, trẻ em đái dầm. Ngày dùng 6-12g.


Các bài thuốc dùng với Dâu tằm

http://trees.stanford.edu/images/morus-rubra01.jpg
Lá dâu - Tang diệp
ảnh theo trees.stanford.edu

Việc vội vàng động phòng khi kinh nguyệt chưa dứt dễ sinh chứng toàn thân đau nhức như dùi đâm. Nên dùng lá dâu già và lược gãy, nệm rách, tóc rối lượng bằng nhau, đem đốt tồn tính, tán nhỏ, mỗi lần uống 3 đồng cân (khoảng 12 g) với nước nóng thì khỏi.

Ra mồ hôi trộm ở trẻ em, ra mồ hôi ở bàn tay người lớn

Lá Dâu non nấu canh với tôm, tép hoặc dùng lá dâu bánh tẻ 12g, Cúc hoa, Liên kiều, Hạnh nhân đều 12g, Bạc hà, Cam thảo đều 4g, Cát cánh 8g, Lô căn 20g, sắc uống.

Quả Dâu, Ngũ vị tử. Mỗi loại 10g, sắc kỹ còn 1/2, uống ngày một lần.

Dự phòng cảm cúm

Lá Dâu 12g, Cúc hoa 12g, Thảo quyết minh 8g sắc uống.

Mắt đau, viêm màng kết mạc cấp tính

Lá Dâu nấu nước xông vào mắt; lá Dâu bánh tẻ, rửa sạch, giã nát đắp, có thể làm tan huyết khi đau mắt đỏ sung huyết.

Huyết áp cao

Lá Dâu và hạt Ích mẫu nấu nước ngâm chân buổi tối 30-40 phút trước khi đi ngủ.

Bệnh mạch vành

Quả Dâu 30g, Câu kỷ tử 30g, Gạo dính 15g. Nấu uống ngày 2 lần.

Viêm khớp sưng phù, chân tay tê bại, cước khí, đầu ngón tay đau nhức, ngứa đỏ về mùa đông đợt lạnh nhiều

Cành Dâu, Kê huyết đằng, Uy linh tiên, mỗi vị 12g, sắc nước uống.

Ăn không tiêu, trướng bụng óc ách, tức thở

Quả Dâu 10g, Bạch truật 6g, sắc uống.

Khó tiêu, chân tay phù nề

http://botany.cs.tamu.edu/FLORA/swts/mora006.jpg
Quả dâu - Tang thậm tử
ảnh theo botany.cs.tamu.edu

Vỏ rễ Dâu sắc uống hoặc phối hợp với vỏ Gừng, vỏ Quít, vỏ quả Cam, Phục linh sắc uống.

Phù thũng

Cành Dâu một nắm, băm nhỏ, đổ ngập nước, đun còn một nửa bỏ bã; Dâu chín lấy một lượng bằng lượng cành, nấu nhừ lọc bỏ bã cô đặc, cho đường, ít rượu, ngày uống 2 thìa canh, hoà nước cơm uống trước bữa ăn.

Ho lâu ngày do phế hư

Quả Dâu 150g, Lá Dâu 100g, Vừng đen 100g, cô cao lỏng, thêm 500g đường, uống ngày 3 lần. Mỗi lần 15g (1 thìa con).

Chữa viêm họng

Mộc nhĩ cây dâu lấy vào ngày 5 tháng 5 âm lịch, thứ trắng như vẩy cá, giã nhỏ, lấy lụa bọc lại thành viên, tẩm mật ngậm, có tác dụng chữa bệnh viêm họng.

Ho lâu ngày do phế hư

Quả Dâu 150g, Lá Dâu 100g, Vừng đen 100g, cô cao lỏng, thêm 500g đường, uống ngày 3 lần. Mỗi lần 15g (1 thìa con).

Ho, hen suyễn

Vỏ rễ 20-40g sắc uống. Có thể thêm Địa cốt bì và Cam thảo.

Chảy nước mắt sống (Nước mắt tự nhiên chảy ra)

Quả Dâu 20g, Cà chua một quả, đem nghiền nát. Ăn hết một lần. Ngày 1 - 2 lần. Đồng thời lấy lá Dâu già, chưa rụng, nấu lấy nước rửa mắt hàng ngày.

Hoạt huyết, dưỡng huyết thông kinh - chữa bế kinh do huyết ứ

Quả Dâu 15g, Hồng hoa 3g, Kê huyết đằng 12g, Rượu trắng 1 thìa con (15ml). Cho tất cả vào nồi, nấu lấy nước, bỏ bã. Ngày 1 thang, uống trong 5 - 7 ngày.

Chữa thiếu máu, da xanh người gầy khô héo, mất ngủ, đầu choáng, chóng mặt:

Dùng quả Dâu chế xirô hay ngâm rượu hoặc dùng quả Dâu thêm Câu Kỷ tử, Hà thủ ô đỏ, nhân hạt táo, mỗi vị 10g, sắc uống.

Chữa thiếu máu, mất ngủ

http://www.khoahoc.com.vn/photos/Image/2008/06/05/worm.jpg
Sâu kí sinh trên dâu tằm - Tang kí sinh
ảnh theo khoahoc.com.vn

Quả dâu chín ngâm với đường (hoặc mật ong), mỗi ngày pha nước uống. Uống liên tục trong nhiều ngày càng tốt. Nếu mất ngủ, nên uống vào buổi tối trước khi đi ngủ.

Mất ngủ cấp tính

Quả Dâu tươi 60g (khô 30g) sắc uống 2 lần/ngày vào chiều tối.

Mất ngủ kinh niên

Quả Dâu 15g, Thục địa 15g, Bạch thược 15g sắc uống.

Trừ phong thấp, mạnh gân cốt, can thận yếu dẫn tới đau lưng mỏi gối

Tầm gửi cây Dâu, phối hợp với Cẩu tích, Ngưu tất, sắc nước uống.

Các chứng bệnh sau đẻ (hậu sản do âm huyết kém; ho, sốt)

Dâu, Long nhãn, Đẳng sâm, mỗi thứ 30g, nghiền nát 3 thứ. Uống mỗi lần 2 - 3g với nước đun sôi để nguội, ngày 3 lần.

Bổ huyết, an thai khi bị động thai ra máu

Tầm gửi thêm rễ Gai, Tục đoạn sắc nước uống.

Di mộng tinh, hoạt tinh

10 tổ Bọ ngựa sao cháy nghiền bột, thêm đường, uống trước khi đi ngủ, uống 3 ngày. Có thể thêm Long cốt, nghiền bột mịn, ngày 2 lần, trong 3 ngày.

Đái dắt, đái nhạt

Tổ Bọ ngựa Dâu cùng với quả Kim anh, nướng cháy, tán mịn, uống với rượu lúc đói.

Các bệnh tuổi già

Nhức mỏi cơ xương, khớp, đau lưng gối, hoa mắt, ù tai, chóng mặt, táo bón, kém ăn, yếu sức, đoản hơi, tóc râu khô bạc, rụng, hay quên, lẫn.

*Cháo qủa Dâu: Quả Dâu chín 40g, Gạo cũ 50g, Đường phèn vừa đủ. Nấu cháo loãng, ăn buổi sáng (khi chưa ăn gì, bụng còn đói), rất tốt với trẻ em, người già, yếu, ốm dậy.

*Bánh mè quả Dâu: Quả Dâu 30g, Vừng đen 60g, Bột nếp 700g, Bột gạo tẻ, hạt Đay 10g, Đường trắng 30g. Làm bánh, hấp chín.

Hồi hộp, tim đập nhanh, đau tức ngực

Quả Dâu 30g, Ngân nhĩ 20g, Ô mai 3g. Sắc kỹ uống ngày 2 lần.

Thuốc bổ

Sâu Dâu thêm nước cơm hấp chín, ăn tất cả.

Bổ huyết, dưỡng huyết

Phù tang chí bảo là một bài thuốc hay đã được đề cập đến trong nhiều y thư cổ. Uống ba tháng thì thân thể mọc đầy mụn do sức thuốc đẩy ra; sau đó khắp mình sẽ tươi sáng, da dẻ mịn màng. Nếu uống liên tục nửa năm, khí lực trở nên mạnh mẽ, bệnh tật dần dần tiêu tan. Trường kỳ uống mãi thì gân cốt rắn chắc, khí huyết dồi dào, rõ tai, sáng mắt, tinh thần khoan khoái, tăng thêm tuổi thọ.

Chọn lá dâu non, hái lúc mặt trời mọc, rửa sạch bụi phấn, phơi nắng cho khô. Vừng đen phân nửa, xát tróc vỏ, đem đồ chín “cửu chưng cửu sái” (có nghĩa là chín lần đồ, chín lần phơi), cùng lá dâu tán bột, có thể đem xay nhỏ, cho luyện mật làm thành viên hoàn.

Cũng hai vị thuốc này, Tuệ Tĩnh còn dùng nấu với nước vo gạo để gội đầu, chỉ 7 lần mà tóc dài được vài “thước”! Nếu đúng như vậy thì bài thuốc này có tác dụng kích thích mọc tóc.

Bổ can thận, ích tâm huyết, thính tai, sáng mắt, lợi xương khớp

Rượu tang thậm (Tang thậm tửu). Trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân: Quả Dâu tươi, chín 5000g, Gạo nếp 6000g. Men rượu vừa đủ. Quả Dâu phi chín đều, ép lấy nước, đun sôi để nguội, cho cơm nếp, men rượu, trộn đều cho vào bình ngâm. Ngày uống mỗi lần 30 - 50 ml/ngày, vào 2 bữa cơm.

Dưỡng huyết đen mượt tóc (Trung y mỹ dung)

Quả Dâu tươi chín 50g. Đường phèn vừa đủ. Quả Dâu rửa sạch, cho vào nồi đất, cho nước vừa đủ, sắc lấy nước, hoà đường phèn để uống. Có thể uống thường xuyên, nhất là về mùa hè.

Tóc khô gẫy, rụng, chóng bạc

* Quả Dâu 100g, rượu 1/2 lít, ngâm 3 ngày. Uống ngày 2 bữa cơm. Mỗi lần 20ml.

* Quả Dâu, Sinh địa, mỗi thứ 30g, Đường trắng 15g. Giã nát, sắc uống, chia 10 lần uống.

Chữa thong manh, đau mắt

Tuệ Tĩnh cũng giới thiệu dùng chữa chứng thong manh bằng lá dâu tươi đem về giã nát, phơi khô, đốt thành than, nấu lấy nước mà rửa mắt. Xưa có người thong manh đến 20 năm mà đã chữa khỏi bằng bài thuốc này.
Để chữa đau mắt gió hay chảy nước mắt: Lá dâu hái vào tháng chạp, hãm lấy nước mà rửa hàng ngày.

Chữa hen suyễn lâu ngày

Lá dâu già, lá thầu dầu già, trấu sao mật, các vị tán nhỏ, thắng mật làm viên bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống một viên với nước sôi. Bài thuốc này được Tuệ Tĩnh cho là rất hay.

Chữa huyết áp cao

Lá dâu bánh tẻ một nắm nhỏ, cá diếc sống một con. Đem cá diếc bỏ vào châu pha nước muối cho nhả hết nhớt, không mổ, để nguyên con đem luộc, gỡ lấy thịt nấu canh với lá dâu mà ăn.

Hoặc: Vỏ rễ dâu 15,5 g, sinh địa 9 g, hoài sơn (củ mài) 15,5 g, phục linh 6 g, mẫu đơn bì 9 g, tri mẫu 15,5 g, sa sâm bắc 15,5 g, táo ta 10 g, mai rùa 10 g, thạch xương bồ 6 g, huyền sâm 15,5 g, đương quy 6 g, hà thủ ô đỏ 10 g, hoàng cầm 6 g. Sắc uống ngày một thang. Uống liên tục 2-3 tháng.
Hoặc: Trai sông 50-100 g, lá dâu tươi 20 g thái nhỏ, nấm hương 20 g, hành củ khô 2-3 củ. Nấu cháo ăn hàng ngày, có tác dụng hạ huyết áp tốt. Bài thuốc này thích hợp với người già bị tăng huyết áp và u xơ tiền liệt tuyến có các dấu hiệu tiểu không thông, tiểu đêm, tiểu nhiều lần… Đặc biệt là người tăng huyết áp bị chứng “trên bảo dưới chẳng chịu nghe” thì cũng nên dùng.

Tẩy sán

Lấy dao tre cạo lấy vỏ trắng ở cành dâu 3 nắm, nước 3 bát sắc lấy 1 bát. Tối hôm trước phải nhịn ăn, sáng mai bụng đói thì uống, sán sẽ xuống hết. Uống 2-3 lần.

Chữa tiểu buốt, nước tiểu đục

Tổ bọ ngựa trên cây dâu, mỗi lần chỉ cần một cái nướng khô, tán nhỏ, uống với rượu lúc đói, nặng thì uống 2-3 lần là khỏi. Chuyên trị chứng “cao lâm” tiểu buốt. Ngài tằm bỏ đầu, chân, cánh, sấy khô, tán nhỏ, giã với cơm vo thành viên bằng hạt ngô đồng, uống với nước muối lúc đói, chữa được nước tiểu đục, trắng.

Chữa viêm tuyến vú

Đọt dâu non một nắm, giã nhỏ đắp vào chỗ vú sưng, lấy giấy dấp nước đắp ngoài, khi khô lại thay, hết viêm thì thôi.

Nguồn: Y học cổ truyền Tuệ Tĩnh, Báo Sức khỏe & Đời sống, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Cây rau trái đậu dùng để ăn và trị bệnh

Hanh.bvn

 

Bài nguyên bản: http://www.botanyvn.com:443/cnt.asp?param=news&newsid=948
© Copyright 2007-2025 BVNGroup, website http://www.botanyvn.com
® BVNGroup. Mọi nội dung được sử dụng lại đều phải ghi rõ nguồn gốc từ website này.