![]() |
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Kinh nghiệm của cộng đồng người Tày tại Hà Giang trong việc sử dụng cây cỏ làm men láRượu là một sản phẩm từ lâu đời, gắn liền với bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc trên thế giới. Ở nước ta, nghề nấu rượu thủ công đã có từ ngàn xưa và được truyền từ đời này sang đời khác, thể hiện được nét văn hóa đặc trưng qua từng sản phẩm, từ đó hình thành nên nhiều làng nghề chuyên sản xuất rượu ngon nổi tiếng như rượu làng Vân (Bắc Giang), rượu Mẫu Sơn (Lạng Sơn), rượu Sán Lùng (Lào Cai)Trong đó rượu men lá như là một sản phẩm truyền thống từ hàng ngàn năm nay của các cộng đồng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam, với những thương hiệu nổi tiếng như rượu Ngô men lá Thanh Vân (Hà Giang), rượu Ngô Ba Bể - Pắc Nặm (Bắc Kan), rượu Ngô Na Hang (Tuyên Quang). Tuy nhiên tác động của nền kinh tế thị trường, công nghiệp hóa nên nhiều làng nghề không còn giữ được thế mạnh và bản sắc như xưa, cùng với đó nạn khai thác tài nguyên không kiểm soát đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của các loài thực vật. Do vậy, cần có những nghiên cứu khôi phục, duy trì và phát triển kinh nghiệm về thu hái, sử dụng và chế biến men lá, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên rừng. Hà Giang là tỉnh có đông đồng bào dân tộc Tày sinh sống, nơi đây đang lưu trữ một kho tàng tri thức bản địa trong việc thu hái, chế biến các loại cây làm men lá. Do đó kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần cung cấp những thông tin cần thiết trong việc khôi phục, duy trì và phát triển nghề sản xuất rượu truyền thống cũng như gìn giữ và phát huy giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc, định hướng cho công tác phát triển kinh tế và bảo tồn tài nguyên rừng tại địa phương. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành hoạt động nghiên cứu tai 2 địa điểm là: xã Việt Vinh huyện Vị Xuyên và thị trấn Bắc Mê huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang trong suốt thời gian từ 2010-2011.
Nghiên cứu tập trung vào các hộ gia đình là cộng đồng người Tày thường xuyên tiến hành hoạt động chế biến rượu ngô men lá tại 2 địa điểm nói trên.
Các phương pháp chính được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm: Các phương pháp điều tra, nghiên cứu thực vật: Điều tra khảo sát theo các tuyến để thu thập mẫu tiêu bản thực vật làm men lá. Tiến hành xử lý và bảo quản mẫu vật. Tên loài được định tên bởi các chuyên gia của Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Đại học Lâm nghiệp Việt Nam. dựa trên các tài liệu chuyên ngành và bộ mẫu tiêu bản đang lưu trữ tại các phòng tiêu bản. Tiến hành xây dựng danh lục các loài thực vật làm men lá. Các phương pháp nghiên cứu tại cộng đồng (PRA, RRA…) Thu thập các thông tin liên quan về kiến thức bản địa trong việc sử dụng tài nguyên thực vật để sản xuất men lá. Kết quả nghiên cứu
Qua điều tra, phỏng vấn, chúng tôi đã xác định được 20 loài thực vật được người dân sử dụng làm men lá thuộc 19 chi, 17 họ thực vật bậc cao. Kết quả được thể hiện ở bảng 1. Bảng 1. Thành phần loài cây và kinh nghiệm sử dụng làm men lá
Kết quả điều tra cho thấy, các hộ gia đình sử dụng thành phần, số lượng các loài thực vật trong quả men lá khác nhau, trung bình sử dụng 10-12 loài cây trong men lá. Trong tổng số 20 loài đã điều tra có khoảng 15 loài (Riềng nếp, Kinh giới núi, Sài đất giả, Cà, Thiên niên kiện, Hoa sói, Nhân trần, Tu hú lá to, Lưỡi đắng bầu, Trầu không rừng, Dây dất, Bạch tu lá quế, Găng, Xuyên tiêu, Dây mật) là những thành phần chính và cốt lõi để hình thành nên quả men. Kết quả điều tra cũng cho thấy tất cả các hộ gia đình được phỏng vấn đều phải sử dụng ít nhất 8-10 loài cây trong tổng số những cây chính và cốt lõi để hình thành nên quả men. Qua bảng 1, thấy rằng, cộng đồng người Tày tại Hà Giang khi tiến hành sản xuất một quả men rượu làm từ thực vật thường sử dụng khoảng 20 loài thực vật khác nhau, các loài này thường có tinh dầu (Xuyên tiêu, Nhân trần, Trầu không, Kinh giới núi,…) và có tính nóng, cay (Ớt, Trầu không, Kinh giới núi…) điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tính chất của rượu. Kết quả điều tra ngoài thực địa và phỏng vấn 40 hộ gia đình biết làm men lá và nấu rượu men lá cho thấy rằng, các loài cây được người dân khai thác để làm men rượu chủ yếu là cây bụi, sống tập trung ở sườn đồi ẩm, một số ít sống ở vách núi đá như: Hoa sói, Trầu không rừng, … các loài này có thể khai thác quanh năm. Do đa phần những loài cây chủ đạo dùng làm men lá thường mọc ở những nơi rất hiểm trở, đi lại rất khó khăn, do đó phải lưu ý lựa chọn ngày thu hái thích hợp nhất, không phải ngày nào cũng có thể đi lấy được các loại cây này mà thường người dân chỉ đi lấy vào ngày “con ngựa” (theo âm lịch). Vì theo quan niệm của người Tày thì đi lấy cây vào ngày này thì người đi lấy mới dẻo dai, có sức khỏe như loài ngựa để có thể đi lại thuận lợi; đồng thời còn gặp nhiều may mắn để có thể đi lấy đầy đủ các loài cây. Việc thu hái các loài cây không phải là tùy tiện mà phải có công thức nhất định. Bằng kinh nghiệm đúc rút qua nhiều thế hệ người dân ở đây đã đưa ra được cách lấy số lượng của các loài cây một cách phù hợp nhất để có thể làm được men lá có chất lượng tốt nhất. Theo những người có kinh nghiệm lâu năm trong việc sử dụng men lá cho biết thì tất cả các loài cây khác đều được lấy theo tỉ lệ 1:1 (tính theo khối lượng).
Các loài cây sau khi thu hái về được đem rửa sạch hong khô sau đó phân loại thành từng nhóm khác nhau tùy theo bộ phận sử dụng. Sau đó đem phơi khô dưới ánh sáng mặt trời. Sau khi đã khô một phần, người dân chọn ngày để đem băm nhỏ, ngày được chọn thường là “ngày Dần” (theo âm lịch). Vì theo quan niệm của đồng bào dân tộc Tày thì ngày con Hổ là ngày tốt, khi làm men hoặc sơ chế vào ngày này thì sẽ nấu được nhiều rượu hơn, chất lượng rượu sẽ tốt, rượu nấu sẽ ngon hơn. Sau khi băm nhỏ các thành phần này sẽ được trộn đều với nhau và đem phơi khô hoàn toàn. Sau đó nguyên liệu được sử dụng ngay để làm men lá hoặc được cất giữ bảo quản trong điều kiên khô ráo tránh ẩm ướt như cho vào túi nilon hoặc rổ rá sạch sau đó để lên trên gác bế. Theo kinh nghiệm của người dân địa phương nếu được bảo quản tốt thì có thể để được trong vòng 1 năm. Việc bảo quản này là rất quan trọng vì không phải lúc nào cũng có thể đi lấy được các nguyên liệu này. Chính vì thế khâu bảo quản nguyên liệu này rất được người dân chú trọng.
Sau khi có được nguyên liệu là hỗn hợp các loài cây đã đươc băm nhỏ người dân sẽ tiến hành chế biến để tạo thành quả men. Nguyên liệu làm men lá:
Quy trình làm men:
Rượu nấu từ men lá của đồng bào dân tộc Tày tại Hà Giang có chất lượng cao, hương vị đậm đà, uống không bị đau đầu. Đây chính là một điểm rất khác biệt so với nhiều loại rượu khác trên thị trường, là điểm lợi thế để phát triển loại rượu này. Bên cạnh đó, Hà Giang hiện có 11 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc có một phương pháp sản xuất rượu khác nhau. Đây sẽ là nguồn kiến thức bản địa phong phú trong quá trình sản xuất rượu tại địa phương. Tuy nhiên hiện nay, nghề sản xuất men lá đang gặp nhiều khó khăn do: Môi trường sống của các loài thực vật giảm mạnh, người dân phải đi sâu vào rừng, ở những nơi nguy hiểm mới có nguyên liệu; Quy trình sản xuất rượu còn mang tính thủ công, trình độ công nghệ còn kém và thiết bị sản xuất thô sơ nên còn rất nhiều độc tố, tạp chất có tác động xấu tới hệ tiêu hóa, hệ thần kinh, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của người tiêu dùng; Sản xuất rượu mang tính nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình, chưa đáp ứng nhu cầu thị trường. Từ các thuận lợi và khó khăn trên nhóm nghiên cứu đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nghề sản xuất rượu tại khu vực nghiên cứu: Giải pháp về mặt kỹ thuật:
Giải pháp về mặt chính sách, tổ chức:
Kết luận Tại khu vực nghiên cứu có 20 loài cây được sử dụng làm men rượu thuộc 19 chi, 17 họ thực vật. Theo kinh nghiệm của người dân địa phương các loài cây được lấy làm men chủ yếu là cây bụi và dây leo. Các loài này tập trung chủ yếu ở vùng sườn núi ẩm ướt. Các bộ phận của cây đều được sử dụng. Quá trình bảo quản nguyên liệu ở nơi thoáng mát không bị ẩm ướt. Phần lớn các loài được khai thác từ rừng tự nhiên, người dân chưa chú trọng trong gây trồng để nhằm giảm tác động vào rừng và chủ động trong việc thu hái nguyên liệu. Theo kinh nghiệm của người dân địa phương có 15 loài chủ yếu và được coi là không thể thiếu trong quá trình làm men rượu. Nguyên liệu làm men lá gồm: Lá cây sau khi đã phơi khô, băm nhỏ; Gạo nếp, gạo tẻ; Men giống và nước sạch. Quy trình làm men được thực hiện gồm 4 bước. Từ những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển nghề nấu rượu tại địa phương, chúng tôi đã đưa ra hai nhóm giải pháp chính để phát triển nghề này như: nhóm giải pháp về kỹ thuật, nhóm giải pháp về chính sách và tổ chức. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Tiến Bân, 1997: Cẩm nang nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học kĩ thuật, Hà Nội Đỗ Văn Trường dovantruong
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bài nguyên bản: http://www.botanyvn.com:443/cnt.asp?param=news&newsid=1439 © Copyright 2007-2025 BVNGroup, website http://www.botanyvn.com ® BVNGroup. Mọi nội dung được sử dụng lại đều phải ghi rõ nguồn gốc từ website này. |