Thông tin chung
Tên thường gọi: Rau đắng biển
Tên khác: Rau sam đắng, Cây ruột gà
Tên tiếng Anh: Coastal Waterhyssop Herb
Tên khoa học: Bacopa monnieri (L) Wettst
Tên đồng nghĩa: Herpestis monieri (L) H.B.K)
Thuộc họ Hoa mõm sói - Scrophulariaceae
Rau đắng biển trong đời sống
Rau đắng biển được sử dụng trong nền Y học cổ truyền Ấn Độ cách đây 3.000 năm. Những dược tính chữa bệnh hết sức kỳ diệu của loài thực vật này đã khiến người dân cổ xưa Ấn Độ dành cho nó một thái độ tôn kính. Những người Hindu giáo (Bà La Môn) còn gọi cây này là Brahmi, vốn là một từ có nguồn gốc từ “Brahma”. Nếu những ai có biết về Hindu giáo, tôn giáo hết sức thịnh hành ở Ấn Độ, thì rất dễ dàng biết rằng Brahma là đấng sáng tạo, đó là một trong những ngôi trong tam vị nhất thể bên cạnh hai ngôi còn lại là Vishnu (Đấng bảo tồn) và Shiva (Đấng hủy diệt).
Rau đắng biển - Bacopa monnieri
Ảnh theo nybg.org
Theo các tài liệu y học cổ của Ấn Độ, loài thực vật này có tác dụng giúp gia tăng khả năng ghi nhớ, giảm sự mệt mỏi về tinh thần, giúp con người tỉnh táo hơn, chữa bệnh động kinh, chữa một số bệnh về đường ruột... Theo các nhà nghiên cứu, người Ấn Độ đã sớm nhận thức tầm quan trọng của não bộ, vì cơ quan này đóng vài trò quan trọng cho các hoạt động sống của con người và chính vì tác dụng diệu kỳ của Bacopa monniera cho não bộ mà nó đã được các tín đồ Hindu tôn thờ và gọi là “Brahmi”.
Thật ra, loài thực vật này cũng hết sức quen thuộc đối với người dân Việt Nam, đặc biệt là những người dân sống ở đồng bằng Nam bộ, vùng đất phì nhiêu, chằng chịt kênh rạch. Bacopa monniera chính là rau đắng biển. Có thể nói nếu xét về mặt văn hóa dân tộc thì rau đắng xứng đáng góp phần quan trọng trong sự hình thành nền văn hóa ẩm thực đặc sắc Nam bộ. Vùng đất này dập dìu tôm cá, rau quả sẵn có rất nhiều đã tạo nên nền ẩm thực dân dã đầy những tiếng cười hào sảng của những con người chân chất giữa khung cảnh thiên nhiên đong đầy những câu hò, điệu lý. Nói về ẩm thực Nam bộ thì không thể nhắc đến rau đắng biển. Loại rau này thật “dễ tính” như con người ở đây, không cần chăm bón vẫn có thể mọc ở những nơi nào có đất như: bờ ruộng, bụi tre, mọc lẫn với cỏ, ở sau hè, góc vườn. Rau đắng ngon nhất khi vừa sau mưa, vì lúc đó cọng rau sẽ mập tròn. Rau đắng có thể nhúng vào các loại lẩu, nấu các loại canh như: canh cá đồng, canh cá lóc hoặc đơn giản nhất là chấm với mắm kho quẹt… Ai đã từng ngồi giữa khung cảnh đồng quê hữu tình,thưởng thức chén lẩu cá với rau đắng biển, thỉnh thoảng nhấp một chút men nồng chắc hẳn sẽ không thể quên được cảm giác thú vị này. Người ta ghiền rau đắng cũng có lí do của nó, vì đa số cảm nhận của mọi người sau khi ăn nó xong là sự căng thẳng thần kinh do áp lực công việc cũng giảm, hôm sau làm việc thấy trí óc tỉnh táo hơn, sảng khoái hơn, chứng nhiệt trong người gây bứt rứt cũng bớt thấy rõ, một số trường hợp mắc chứng rối loạn tiêu hóa cũng ổn định được phần nào…
Mô tả
Cây thảo sống dai có thân nhẵn, mọc bò mang rễ dài 10-40cm. Các cành mọc đứng mềm, không lông, rất đắng. Lá mọc đối, không cuống, thuôn hình muỗng, dài cỡ 1cm, gân chính hơi khó thấy. Hoa mọc riêng lẻ ở nách lá, có cuống 1cm, 5 lá đài không đều, cao 5-6mm, 5 cánh hoa trắng gần nhau, dính nhau ở dưới thành ống, 4 nhị, nhuỵ có bầu, không lông. Quả nang hình trứng có mũi, nhẵn, có vòi tồn tại trong đài. Hạt nhiều, rất nhỏ.
Bộ phận dùng
Toàn cây - Herba Bacopae Monnieri.
Nơi sống và thu hái
Loài liên nhiệt đới, mọc hoang ở ven bờ ruộng bãi cỏ, đất cát ở đồng bằng. Thu hái toàn cây quanh năm, rửa sạch, dùng tươi hay phơi khô.
Thành phần hoá học
Hiện nay, các nhà khoa học đã làm sáng tỏ phần nào về loài rau này. Rau đắng có chứa hoạt chất saponin gồm bacoside A và bacoside B, có tác dụng gia tăng tuần hoàn não, tăng cường dẫn truyền xung động ở hệ thần kinh, chống oxy hóa tế bào não, giúp cho sự tỉnh táo (alertness) và nhận thức (awareness). Một số người Ấn Độ cổ gọi cây này là Phenavati. Theo tiếng Phạn thì “Phena” có thể tạm hiểu là tính tạo bọt. Quả thật khi rau đắng được nấu với nước, nó sẽ sản sinh ra lượng bọt nhiều mà ngày nay người ta cho rằng khối bọt này chính là saponin trong rau đắng biển được phóng thích ra. Người ta cũng phát hiện alkaloid brahmine trong rau đắng biển, có tác dụng tượng tự như strychnin nhưng ít độc hơn.
Trong cây có alcaloid brahmine tác dụng giống như strychnin nhưng ít độc hơn. Còn có saponin là hersaponin có tác dụng chủ yếu, giống với reserpin và chlororomazin. Người ta còn phân ly được 3 base là oxalat, B2 oxalat, Bachloroplatinate, stigunasterol ở trạng thái tự do, acid betulic.
Tính vị, tác dụng
Theo các tài liệu Y học cổ truyền, rau đắng có tính mát, vị đắng, có khả năng thanh nhiệt tiêu độc, thường dùng trong các trường hợp kiết lỵ, sưng mắt đỏ, viêm gan, suyễn, trợ thần kinh, trợ tim, động kinh, sử dụng làm thuốc xổ, ho, dùng ngoài trị ghẻ… Các nhà khoa học hiện đại còn phát hiện rau đắng biển có tác dụng giảm đau, kháng viêm, ức chế tế bào ung thư, dùng tốt cho hội chứng ruột kích thích, cho bệnh nhân Alzheimer, những bệnh nhân sau khi bị đột quỵ…
Công dụng, chỉ định và phối hợp
Thường được dùng trị: 1. Xích, bạch lỵ (lỵ ra máu, mủ); 2. Mắt đỏ sưng đau; 3. Da sưng đỏ; 4. Nhức mỏi tê bại, đòn ngã tổn thương; 5. Viêm gan vàng da (thay vị rau má); 6. Ho. Dùng ngoài da tắm trị ghẻ.
Ở Ấn Ðộ, người ta dùng toàn cây để trị hen suyễn, động kinh, điên rồ, mất tiếng và dùng thân lá trị rắn cắn.
Ở Xri Lanca toàn cây dùng làm thuốc xổ, và đun nước nóng rửa chữa bệnh nhọt độc sưng ngoài da như da voi.
Cách dùng
Ta thường dùng rau đắng biển ăn như rau sống hoặc nấu chín ăn. Ðể làm thuốc, liều dùng hàng ngày là 6-12g dạng thuốc sắc. Dùng ngoài, nấu nước tắm hoặc dùng cây tươi giã nhỏ lấy nước trộn với dầu hoả dùng xoa chỗ đau.
Rõ ràng, rau đắng biển đâu chỉ là một loài cây mang nặng hồn quê và có thể bất chợt một phút giây nào đó trong cuộc sống mưu sinh tất bật lại hướng tâm hồn người ta tìm về “khung trời kỷ niệm, chợt thèm rau đắng nấu canh”, mà còn là một dược thảo vô cùng quý giá trong việc chăm sóc cho sức khỏe con người.
Nguồn tổng hợp: Báo Sức khỏe và Đời sống, Y học cổ truyền Tuệ Tĩnh