Loài này được quốc tế đánh giá là ít nguy cấp (LR/lc) [12] và thuộc Phụ lục II của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã - CITES [13]. Tại Việt Nam, theo các tiêu chí mới của IUCN 2010, chúng cần được xếp vào bâc sắp bị tuyệt chủng VUA2ac, B2ab(i-v), đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam với bâc sắp bị tuyệt chủng (VU) [1, 5] và nằm trong nhóm II A: Thực vật rừng hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại của nghị định số: 32/2006/NĐ-CP, ngày 30 tháng 3 năm 2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm [2]. Ngoài giá trị sử dụng về gỗ làm hàng mỹ nghệ, đóng đồ dùng gia đình, làm nhà, chế tạo công cụ sản xuất và làm guồng lấy nước, nhiều loài trong chi Thông đỏ - Taxus có giá trị đặc biệt về măt y học. Tại Mỹ và một số nước Châu Âu đã thành công trong việc sản xuất taxol (hợp chất trị bệnh ung thư) từ lá và vỏ cây hai loài Taxus wallichiana Zucc. và Taxus brevifolia Nutt. thuộc chi Thông đỏ [10]. Ở Việt Nam loài Thông đỏ bắc được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng để sản xuất thuốc trị bệnh ung thư vì có các hoạt chất quan trọng để sản xuất taxol như 7-xylosyl-10-deacetylbaccatine III và 10-deacetylbaccatine III đã được phân lập và mô tả từ vỏ và lá cây Thông đỏ bắc (Taxus chinensis) ở Hoà Bình [7, 11]. Đây là loài có giá trị khoa học, thực tiễn cao và là một trong 10 loài Thông được ưu tiên bảo tồn ở Việt Nam [5]. Việc nghiên cứu hiện trạng bảo tồn và nhân giống loài Thông đỏ bắc đã được chúng tôi quan tâm và thực hiện một số năm qua trong một số đề tài dự án. Bài báo này sẽ giới thiệu những kết quả bước đầu về nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp giâm hom loài Thông đỏ bắc, ở KBT Bát Đại Sơn..
I. Phương pháp nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: Vườn ươm tại Khu Bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Bát Đại Sơn, thôn Đầu Cầu 1, xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
Vật liệu nghiên cứu: Hom giâm được cắt từ các cành của cây mẹ có độ tuổi khác nhau mọc tự nhiên trong khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn và ở xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn. Hom giâm thường là các chồi dinh dưỡng khỏe, bánh tẻ và được bảo quản trong túi Nilon để tránh mất nước.
Phương pháp nghiên cứu: Việc giâm hom được thực hiện ngay sau khi thu hom từ cây mọc tự nhiên. Kích thước hom giâm 0,3-0,5 x 10 – 18 cm, hom giâm được cắt bỏ phần lá phía gốc, sau đó ngâm trong dung dịch thuốc diệt nấm VIBEN-C 50BTN (nồng độ 2,5%) khoảng 30 phút thì vớt ra, chấm vào chất kích thích ra rễ Indole Butyric Acid (IBA) dạng bột với nồng độ 500 ppm, 1.000 ppm và 1.500 ppm và cấy ngay lên luống giâm. Luống giâm chứa cát vàng mịn, sạch và được khử trùng bằng dung dịch thuốc diệt nấm VIBEN-C 50BTN (nồng độ 2,5%) và được bao phủ bởi mái che bằng túi PE trắng để tránh bốc hơi nước, trên luống ươm có lưới đen che phủ để tránh nóng. Sau khi giâm xong, hàng ngày tưới nước dạng phun sương 2 lần (sáng và chiều), kiểm tra sự ra rễ của hom giâm định kỳ 2 tuần/1 lần bắt đầu từ tháng thứ 4, các hom giâm không ra rễ sau 6 tháng mà vẫn xanh tươi thì tiến hành giâm lại và tiếp tục theo rõi. Các chỉ tiêu được theo dõi là:
Tỷ lệ % hom ra rễ (Rp) = (Số hom ra rễ /Số hom được giâm) x100%
Số rễ trung bình trên mỗi hom (N)= Tổng số rễ của các hom ra rễ/ số hom ra rễ
Chiều dài trung bình của rễ dài nhất (L) = Tổng số chiều dài các rễ dài nhất của các hom ra rễ/ số hom ra rễ
Chỉ số ra rễ (Ri) = Tỷ lệ ra rễ (Rp) x Số rễ trung bình trên mỗi hom (N) x Chiều dài trung bình của rễ dài nhất (L) = Rp x N x L.
II. Kết quả và thảo luận
Trong khoảng thời gian từ ngày 20/3/2010 đến ngày 20/1/2011 chúng tôi đã tiến hành giâm 1025 hom và thu được các kết quả cụ thể trong bảng 1.
Bảng 1. Kết quả giâm hom Thông đỏ bắc Taxus chinensis (Pilg.) Rehder tại khu BTTN Bát Đại Sơn

Ghi chú: Lô 1, Lô 2, Lô 3: hom giâm được thu từ những cá thể mọc dưới tán rừng ở Khu BTTN Bát Đại Sơn, Lô 4: hom giâm được thu từ cá thể mọc nơi sáng tại xã Thài Phìn Tủng, Đồng Văn, Hà Giang. Lô 1 hom giâm được xử lý với thuốc IBA nồng độ 500 ppm, Lô 2 với IBA 1000 ppm, Lô 3 và 4 có IBA 1500 ppm)

Hình 1: Hình ảnh minh họa các hom Thông đỏ bắc ra rễ ở các nồng độ thuốc IBA khác nhau
Từ kết quả ở bảng 1 chúng tôi thấy rằng: Thời gian ra rễ của Thông đỏ bắc rải rác, bắt đầu từ khoảng tháng thứ 4 sau khi giâm và kéo dài đến tháng thứ 10; Sau khi ra bầu các hom đã ra rễ lần 1 (20/9/2010), chúng tôi tiêp tục giâm lại các hom chưa ra rễ và sau khoảng 4 tháng thì thấy các hom này vẫn ra rễ ở ngày kiểm tra lần 2 (20/1/2011) với tỷ lệ ra rễ từ 44,30% đến 48,84%. Như vậy, để tạo hom giống nhằm tiết kiệm nguyên liệu thì chúng ta có thể sử dụng lại các hom giâm còn tươi đem giâm lại.
Tỷ lệ ra rễ ở 4 lô thí nghiệm khác nhau; Lô 1 sử dụng chất IBA nồng độ 500 ppm có tỷ lệ ra rễ kém nhất (66,67 %), Lô 2 khá hơn một chút (70,56%) khi dùng với IBA 1000 ppm, lô 3 và lô 4 dùng với IBA 1500 ppm có tỷ lệ ra rễ lần lượt là 82,32 % và 84,86 % cao hơn hẳn so với lô 1 và lô 2. Mặt khác, số rễ trung bình trên hom và chiều dài rễ dài nhất trung bình ở Lô 1 là kém nhất (N =3,26 rễ/hom, L = 4,19 cm), sau đấy là Lô 2 (N= 3,41 rễ/hom, L = 4,81 cm), tốt hơn hẳn 2 lô đó là Lô 3 (N = 3,86 rễ/hom, L =5,73 cm) và lô 4 (N =3,56 rễ/hom, L =5,02). Chỉ số ra rễ là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh cho chất lượng của hom đã ra rễ dựa trên 2 tiêu chí là tỷ lệ ra rễ và chất lượng của bộ rễ (số rễ/hom và chiều dài rễ dài nhất), chỉ tiêu này càng cao thì kết quả việc giâm hom là tốt và hom giống khỏe. Điều này chứng tỏ rằng các hom giâm ở Lô 3 và Lô 4 được xử lý với thuốc IBA 1500 ppm cho kết quả giâm hom tốt hơn hẳn các hom giâm ở Lô 1 và Lô 2 được xử lý với thuốc IBA 500 ppm và IBA 1000 ppm.
Số hom chết ở Lô 4 tính đến ngày 20 tháng 9 năm 2010 là 345 – (250 + 71) =24 hom , cao hơn nhiều so với số hom chết trong lô 1 (6 hom), lô 2 (6 hom) và lô 3 (9 hom). Tương tự như vậy, số hom chết ở lô 4 tính tới ngày 20/1/2011 là 345 – (250 + 34) = 61 hom, cũng cao hơn so với số hom chết trong lô 1 (50 hom), lô 2 (53 hom) và lô 3 (53 hom). Điều này có thể là tạm nhận xét do hom ở lô 4 lấy từ cá thể mọc nơi sáng tại xã Thài Phìn Tủng huyện Đồng Văn, có thời gian vận chuyển xa và kiều kiện bảo quản kém hơn so với các hom ở Lô 1, Lô 2 và Lô 3 lấy ngay tại khu BTTN Bát Đại Sơn. Thêm vào đó, điều kiện sống thay đổi trong vườn ươm, các hom giâm của lô 1, 2, 3 lấy từ các cây mẹ mọc dưới tán rừng trong khi đó hom giâm của lô 4 lấy từ cây mẹ mọc nơi sáng. Vì vậy mà các chỉ tiêu (tỷ lệ ra rễ - Rp, số rễ trung bình mỗi hom - N, chiều dài trung bình của rễ dài nhất - L và chỉ số ra rễ- Ri) đánh giá kết quả giâm hom ở Lô 3 nhỉnh hơn so với Lô 4; Rp của Lô 3 (84,86%) > Rp của Lô 4 (82,32%), N của Lô 3 (3,86 rễ/hom) > N của Lô 4 (3,56 rễ/hom), L của Lô 3 (5,73 cm) > L của Lô 4 (5,02 cm), và Ri của Lô 3 (1876,92) > Ri của Lô 4 (1471,16).
So sánh kết quả nghiên cứu giâm hom này vơi một số kết quả nghiên cứu giâm hom Thông đỏ (Taxus) ở Việt Nam và trên thế giới. Ở Việt Nam, thí nghiệm của GS Lê Đình Khả và cộng sự tiến hành giâm hom cây Thông đỏ bắc – Taxus chinensis thu ở xã Pà Cò, huyện Mai Châu và giâm tại Trại thực nghiệm giống Ba Vì - Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng, chúng tôi thấy rằng: Chất kích thích ra rễ thí nghiệm ở Ba Vì là dung dịch chất IBA có nồng độ 500 ppm, 1000 ppm, và 2000 ppm cho kết quả giâm hom vởi tỷ lệ ra rễ lần lượt là 70 %; 60 %; 56,7 % [4], còn trong thí nghiệm của chúng tôi sử dụng chất kích thích ra rễ IBA ở dạng bột với nồng độ là 500 ppm, 1000 ppm và 1500 ppm thì cho kết quả tỷ lệ ra rễ như sau; 66,67 %; 70,56 % và 83,59 % (tỷ lệ trung bình của Lô 3 và Lô 4 cùng được giâm ở nồng độ thuốc IBA 1500 ppm). Rõ ràng tỷ lệ ra rễ của Thông đỏ bắc phụ thuộc nhiều vào nồng độ chất kích thích ra rễ IBA, nhưng kết quả 2 thí nghiệm thì lại ngược nhau. Để làm rõ nguyên nhân nào dẫn tới sự khác nhau đáng kể này thì cần phải có những nghiên cứu về sự khác nhau giữa chất kích thích ra rễ IBA dạng bột và dạng dung dịch ảnh hưởng như thế nào tới tỷ lệ ra rễ đối với việc giâm hom Thông đỏ bắc, nhưng qua đây chúng ta cũng thấy rằng tỷ lệ ra rễ của hom giâm đuợc thí nghiệm tại khu BTTN Bát Đại Sơn cao hơn so với kết quả nghiên cứu của GS Lê Đình Khả và cộng sự thực hiện ở Trại thực nghiệm giống Ba Vì – Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng.
Theo kết quả nghiên cứu của TS. Lê Trần Chấn và cộng sự trong Dự án “Bảo tồn và Phát triển nguồn gen cây quý hiếm của hệ sinh thái núi đá vôi ở xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang” thì tỷ lệ ra rễ của Thông đỏ bắc – Taxus chinensisr được giâm hom tại xã Thài Phìn Tủng là 61% [3]. Rõ ràng tỷ lệ ra rễ của nghiên cứu này là thấp hơn đáng kể so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi tiến hành ở khu BTTN Bát Đại Sơn.
Trên thế giới, Singh S. P. khi nghiên cứu về ảnh hưởng của hóc môn sinh trưởng (chất kích thích ra rễ) tới nhân giống bằng cành hom của loài Thông đỏ Himalaya – Taxus baccata L. đã cho thấy; trong số 4 chất kích thích ra rễ; Indole -3-Acetic Acid (IAA), Indole Butyric Acid (IBA), Gibberelic Acid (GA3) và Naphthalene Acetic Acid (NAA) đem thí nghiệm ở 5 loại nồng độ khác nhau cho mỗi chất tương ứng là 1000 ppm, 2500 ppm, 5000 ppm, 10000 ppm và 12500 ppm, thì thấy rằng chất kích thích ra rễ IBA cho tỷ lệ ra rễ tốt nhất nếu so với các chất còn lại, mặt khác kết quả thí nghiệm chỉ ra rằng chất kích thích IBA có nồng độ 10000 ppm cho tỷ lệ ra rễ cao nhất là 60,01 % và 76,68%[9]. Tóm lại, việc nhân giống Thông đỏ bắc – Taxus chinensis (Pilg.) Rehder nên sử dụng thuốc kích thích ra rễ IBA, và cần phải tiến hành nhiều nghiên cứu hơn nữa về ảnh hưởng của nguồn gốc hom (hom từ cây trẻ và cây trưởng thành, các địa điểm thu hom) tới tỷ lệ ra rễ cụ thể như thế nào, trên cơ sở nghiên cứu đó chúng ta sẽ xây dựng được một quy trình kỹ thuật nhân giống để phục vụ cho công tác bảo tồn loài Thông đỏ bắc đang có nguy cơ sắp bị tuyệt chủng đạt kết quả cao.
III. Kết luận
Trong điều kiện của hệ sinh thái núi đá vôi tại khu BTTN Bát Đại Sơn thời gian giâm hom thích hợp loài Thông đỏ bắc - Taxus chinensis (Pilg.) Rehder cho tỷ lệ ra rễ cao vào tháng 3 dương lịch, các hom giâm bắt đầu ra rễ ở tháng thứ 4, quá trình ra rễ thì rải rác và có thể kéo dài đến tận tháng thứ 10 sau khi giâm.
Chất kích thíc ra rễ Indole Butyric Acid (IBA) dạng bột, nồng độ 1500 ppm cho tỷ lệ ra rễ (Rp từ 82,32 - 84,86%), chỉ số ra rễ (Ri từ 1471,16 - 1876,92) tốt hơn hẳn so với nông độ 500 ppm có Rp =66,67%, Ri =910,67 và 1000 ppm có Rp = 70,56%, Ri =1157,33.
Cùng chất kích thíc ra rễ IBA, nồng độ 1500 ppm thì các hom giâm thu từ cây mẹ sống dưới tán rừng (bị che bóng) ở khu BTTN Bát Đại Sơn cho tỷ lệ ra rễ Rp =84,86%, chỉ số ra rễ Ri =1876,92 cao hơn một chút so với Rp =82,32%, Ri =1471,16 của các hom thu từ cây mẹ sống nơi sáng (không bị che bóng) tại xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ KH&CN, Viện KH&CNVN, 2007: Sách đỏ Việt Nam (Thực vật), NXB. KHTN&CN, 528- 529 tr
2. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2006: Nghị định số 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30 tháng 3 năm 2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm.
3. Lê Trần Chấn và cộng sự, 2010: Tài liệu kỹ thuật Dự án VN/06/011(2007-2009). Bảo tồn và Phát triển nguồn gen cây quý hiếm của hệ sinh thái đá vôi ở xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, NXB. KHTN&CN, Hà Nội, 39-45tr.
4. Lê Đình Khả và cộng sự, 2003: Nhân giống Thông đỏ Pà Cò (Taxus chinensis) bằng hom trong Chọn tạo giống và nhân giống cho một số loài cây trồng rừng chủ yếu ở Việt Nam, NXB. Nông nghiệp, Hà Nội, 223-226 tr.
5. Nguyễn Tiến Hiệp, Phan Kế Lộc, Nguyễn Đức Tố Lưu, Philip Lan Thomas, Aljos Farjon, Leonid Averyanov, Jacinto Regalado Jr. 2004:. Thông Việt Nam: Nghiên cứu hiện trạng và bảo tồn, NXB. Lao động Xã hội, Hà Nội, 110-113.
6. Mitchell A.K., 1997: Propagation and Growth of Pacific Yew (Taxus brevifolia Nutt.) Cuttings. Northwest Science, 7(1): 56-63.
7. Mulliken Teresa, Petra Crofton, 2008: Review of the Status, Harvest, Trade and Management of Seven Asian CITES-listed Medicinal and Aromatic Plant Species. 113-135. TRAFIC International, Cambridge, UK8. Nicholson Robert and Diana Xochitl Munn, 2003: Observstions on the propagation of Taxus globosa Schltdl. Boletín de la Sociedad Botánica de México. 72: 129-130.
8. Singh S.P., 2006: Bulletin of Arunachal Forest Research, 22 (1&2): 64-67.
9. Tran Van Sung et all, 2007: Proceedings the first VAST-KOCI Workshop on Science and Technology R&D cooperation, Hanoi, September 14, 2007, 240-245 pp.
10. Trinh Thi Thuy et all, 2005: Journal of Chemistry, 43(4): 503-507.
Lời cảm ơn: Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tới: Quĩ phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia Việt Nam (NAFOSTED) đã tài trợ kinh phí để thực hiện đề tài mã số # 106.11.17.09, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hà Giang, Khu BTTN Bát Đai Sơn, Ủy ban nhân dân xã Cán Tỷ và người dân địa phương đã nhiệt tình giúp đỡ và tham gia công tác cùng đoàn nghiên cứu.
Nguyễn Sinh Khang, Phạm Văn Thế, Nguyễn Tiến Vinh
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
Nguyễn Quang Hiếu, Nguyễn Tiến Hiệp
Trung tâm bảo tồn thực vật
Nguyễn Trường Sơn
Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn