Xương sông, ảnh theo wiikispecies
|
Thông tin chung
Tên thường gọi: Xương sông
Tên khác: Kim đầu thon, Xang sông, Hoạt lộc thảo, Rau ăn gỏi
Tên tiếng Anh:
Tên khoa học: Blumea lanceolaria (Roxb.) Druce
Tên đồng nghĩa: Conyza lanceolaria Roxb.; Blumea myriocephala DC.; Gorteria loureiriana DC.; Blumea conspicua Hayata
Thuộc họ Cúc - Asteraceae
Mô tả
Cây thảo, cao hơn 0,6-2 m, sống 2 năm. Thân thẳng đứng, có rãnh dọc, gần nhẵn. Lá trứng thuôn dài, mép có răng cưa, những lá phía trên nhỏ hơn. Cụm hoa hình đầu, mọc 2 - 4 cái ở nách các lá bắc. Cụm hoa hình đầu màu vàng nhạt, thành chùy dài ở ngọn, mào lông màu trắng. Tràng hoa cái rất mảnh, 3 răng; tràng hoa lưỡng tính 5 răng, nhị 5. Bao phấn có tai. Bầu có lông. Quả bế hình trụ, 5 cạnh.
Phân bố
Mọc dại và được trồng ở nhiều nơi trong vùng Nam Á và Đông Nam Á, Hoa Nam, Đài Loan... Thường mọc tự nhiên trong vườn hoặc trong rừng ở cao độ thấp do gió thổi các quả bế có lông đi khắp nơi.
Tính vị
Vị cay, tính bình (có tác giả cho là có tính ấm); có tác dụng khư phong trừ thấp; tiêu thũng chỉ thống, thông kinh hoạt lạc. Theo Đông y lá xương sông có tác dụng bổ phế, chống co thắt phế quản, tiêu đờm đặc biệt là những trường hợp do phế nhiệt.
Công dụng.
Xương sông là loại cây được nhân dân trồng khắp nơi, dùng để ăn uống, làm gia vị và làm thuốc chữa cảm cúm, sổ mũi, ho hen, viêm họng, đau họng, nhức răng, loét lưỡi loét miệng, cam sài trẻ em… Lá có mùi hơi hăng của dầu, khá đặc trưng không giống các loại rau thơm khác, nên được dùng chủ yếu làm gia vị, nấu canh.
Lá Xương sông được dùng ăn gỏi cá, gỏi chả nướng và cũng dùng làm gia vị (băm ra ngâm muối vài ngày) hoặc nấu với thịt cá.
Lá non dùng để làm gia vị trộn trong chả và cuốn chả nướng, ăn với gỏi cá. Có thể dùng để nấu, nêm nếm trong một số món thịt, cá. Thân và lá làm thuốc trị ho, giải nhiệt, kích thích tiết mồ hôi.
Thường dùng chữa: 1. Cảm sốt, ho, viêm họng, viêm phế quản; 2. Tưa mồm, trắng lưỡi, viêm miệng; 3. Ðầy bụng đi ngoài, nôn mửa; 4. Sốt co giật ở trẻ em. Liều dùng 15-20g dạng thuốc sắc. Có thể dùng lá tươi ngậm hoặc chiết lấy nước uống. Dùng ngoài, giã nát, xào nóng chườm lên những chỗ sưng tấy, đau nhức, thấp khớp.
ở Vân Nam (Trung Quốc), người ta dùng lá trị phong thấp, sản hậu đau khớp xương, đau đầu phong và đòn ngã. Ở Hải Nam, người ta dùng cả cây bỏ rễ trị viêm phế quản, lở loét, viêm miệng và dùng làm thuốc ra mồ hôi.
ở Malaixia, người ta dùng lá làm cao dán chữa tê thấp.
Thu hái, chế biến
Ðể làm thuốc, thu hái lá bánh tẻ, dùng tươi hay phơi khô trong râm hoặc sấy nhẹ cho đến khô.
Thành phần hóa học
Lá chứa tinh dầu 0,24% mà thành phần chủ yếu là methylthymol (94,96%); còn có p-cymen (3,28%), limonen (0,12%).
Các bài thuốc sử dụng Xương sông
Ho do phế nhiệt
Ho khan, ho kéo dài, người bệnh không ngừng được: lá xương sông, lá dâu, lẫm đề, mỗi thứ một nắm nấu nước uống (cách 30 phút uống 1 lần)
Cảm cúm nhức đầu sổ mũi, đau họng rát họng, ho mắc đờm
Lá xương sông 24g, cát cánh 12g, tía tô 16g, trần bì 12g, mạch môn 16g, cam thảo 12g, sinh khương 6g sắc uống hoặc lá xương sông 24g, mạch môn 16g, ngũ vị 12g, xa tiền 12g, bán hạ 10g, hậu phác 12g, mơ muối 12g, trần bì 12g, đại táo 16g, cam thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang.
Trẻ nhỏ bị ho, sốt nhẹ
Lá xương sông 6g, lá hẹ 6g, hai thứ rửa sạch thái nhỏ bỏ vào chén con, đường trắng 1 thìa, mật ong 4 thìa. Đưa bát thuốc hấp vào nồi cơm khi chín mang ra để nguội, lấy nước thuốc trong bát cho trẻ uống 4 – 5 lần trong ngày.
Xương sông, lá Hẹ, Hồng bạch, hoa Ðu đủ đực, sắc uống.
Trẻ em sốt cao, co giật, thở gấp
Xương sông, Chua me đất giã nhỏ chế nước nóng vào vắt lấy nước cốt uống.
Trúng phong cấm khẩu
Lá Xương sông và lá Xương bố giã tươi hòa với nước nóng uống hoặc sắc nước uống.
Khi dùng phải thức ăn không hợp vệ sinh gây đau bụng đầy bụng, nôn mửa
Lá xương sông 30g, tía tô 30g, sinh khương 10g, hậu phác 10g, trần bì 10g, chỉ xác 10g. Cho các vị vào ấm, đổ 3 bát nước, nấu sôi 10 phút, rót ra bát uống dần.
Trong vú có u cục đau nhức
Lá xương sông và lá đinh lăng mỗi thứ một nắm, giã nhỏ đắp tại chỗ, băng lại, đồng thời cho uống: Rễ xương sông 12g, nam tục đoạn 12g, kinh giới 12g, hoa hòe (sao vàng) 16g, củ đinh lăng 16g, trinh nữ 16g, cho các vị vào ấm đổ 3 bát nước, sắc còn 1,5 bát chia 2 lần uống trong ngày (uống khi thuốc còn ấm).
Người cao tuổi bị đau răng nhức răng, tụt lợi
Rễ xương sông rửa sạch phơi khô 20g, hoàng liên 10g, hai thứ cho vào chai thủy tinh, đổ ngập rượu để ngâm, ngâm khoảng 10 ngày là có thể dùng dược, dùng bông chấm thuốc bôi vào răng lợi.
Tham khảo:
Cây thuốc và Vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi)
Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi)
Cây Cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ)