Tên Khoa học: Vietnamocasia dauea N.S.Lý, S. Y. Wong, T.Haevermans & D.V.NguyenTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Ráy việt núi dầuTên khác:
Ráy việt núi dầu, tên khoa học Vietnamocasia dauae, là một loài thực vật một lá mầm trong họ Ráy Araceae, được phát hiện trong chương trình hợp tác Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam với đại học Malaysia Sarawak, Đại học Harvard, Đại học Pierre và Marie Curie, Đại học Ludwig Maximilian München tại rừng trên núi Dầu thuộc huyên Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, công bố trên tạp chí khoa học Phytotaxa ngày 13/4/2017. Tên loài được đặt theo tên vùng phân bổ tìm thấy mẫu vật đầu tiên: núi Dầu
Ráy việt núi dầu là loài cây thân thảo trung sinh, thường xanh cao đến 80 cm; thân không phân nhánh, màu xanh, dài 35–50 cm, đường kính 2–3,5 cm, phân lóng rõ ràng, lúc đầu mọc thẳng sau trường trên mặt đất, phần ngọn thân hướng lên mang (6–)9–19 lá thẳng đứng, sau trải rộng ở cây trưởng thành.
Lá vảy màu xanh nhạt, dài cỡ 4.5–8.8 cm, rụng sớm; cuống lá yếu, dài (8–)13–41 cm, màu xanh; bẹ lá bằng cỡ ¼–½ chiều dài cuống, màu xanh, có cánh; phiến lá hình khiên, dạng elíp hay elíp-tròn dài, dày như da, cỡ 22–39 × 7–14 cm, mặt trên xanh đậm, bóng, mặt dưới xanh, không phấn, mép lá nguyên, mũi nhọn rộng; phiến trước cuống mang 5–6 gân bên gần đối diện ở mỗi phía, cong lên; các tai sau gốc lá nối liền nhau tạo thành một mũi cạn hình chữ V, dài bằng (¼–)1/5–1/7 của phần phiến trước cuống.
Bông mo mọc ở nách lá, đơn độc hay 2–3 bông, 1 lá vảy bao ngoài; cuống bông mo dài cỡ 11–34 cm, màu xanh, mọc thẳng. Mo dài 12–12,5 cm, hơi thắt lại giữa ống mo và phiến; ống mo hình trụ hay hình trứng, cỡ 3–4 × 1,3–1,5 cm, xanh mặt ngoài, xanh nhạt mặt trong, mép không mỡ; phiến mo dạng hình mác thuôn dài, cỡ 8–13 × 3,3–3,8 cm, xanh nhạt mặt ngoài, trắng mặt trong, nhẵn và bóng hai mặt, mũi nhọn ở đỉnh, rụng sớm. Bông nạc ngắn hơn phiến mo, dài cỡ 7–8.7 cm, trên cuốn màu trắng ngắn hơn 1 cm; phần cái hình trụ cỡ 15–21 × 4–5 mm, các hoa cái xếp rời rạc; bầu gần hình cầu, cỡ 1,2–1,5 × 1,4–1,5 mm, trắng ngà, 1 ô, 5(–6) noãn ngược, đính ở đáy; vòi nhụy rất ngắn; nuốm gần hình đĩa, 3–4 thùy, màu kem nhạt; phần hoa trung tính gần hình trụ, cỡ 12–16 × 4–4,5 mm, phía đầu hẹp dần ở nơi thắt lại của mo, các hoa trung tính xếp 5–6 vòng, thường hình thoi 6 cạnh, cỡ 2–3 × 1,2–2 mm, vàng kem đến trắng, đỉnh phẳng; phần đực hình trụ, cỡ 10–12 × 5–7 mm; hoa đực có 2–3 nhị hoa rời, màu trắng kem; phần phụ gần hình trụ, đỉnh cùn, cỡ 3–4,6 × 0,5–0,7 cm, màu vàng-kem, có nhiều vân nổi chạy dọc dạng não. Mo quả hình trứng tam giác hẹp, cỡ 6–7,2 × 2,3–2,7 cm, xanh đậm mặt ngoài, hơi trắng mặt trong; quả hình cầu, có 4 cạnh mờ ở đỉnh, cỡ 4,1–6 × 5–5,5(–8,5) mm, màu trắng kem lúc non, thường một hạt.
Hiện chỉ phát hiện một số lượng rất ít các quần thể nhỏ của 2–8 cá thể Ráy việt núi dầu, Vietnamocasia dauea, mọc phân tán dưới tán rừng ẩm thứ sinh cây lá rộng ưu thế cây họ dầu, tại núi Dầu, huyện Nghĩa Hành, và rừng nguyên sinh thường xanh cây lá rộng núi thấp thuộc vùng núi Cà Đam, huyện Tây Trà và Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi, ở cao độ từ 150 – 790 m so với mực nước biển. Ráy việt núi dầu ra hoa vào tháng 5 và quả được ghi nhận đến giữa tháng 9. Đây là chi và loài đặc hữu hẹp cho hệ thực vật Việt Nam. Hiện nay loài này đang gặp nguy cấp cao vì môi trường sống bị thu hẹp và xáo trộn do mất rừng. Do đó, việc nghiên cứu nhân giống bảo tồn loài này là cần thiết. Hơn nữa, kiểu cây nhỏ, hình dạng lá và hoa đẹp nên Ráy việt núi dầu rất phù hợp cho việc nhân giống làm cảnh.