Tên Khoa học: ThymelaeaceaeTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: TrầmTên khác:
Thymelaeaceae Juss. 1789
Họ Trầm là một họ thực vật có hoa. Ngoại trừ mối quan hệ chị em với họ Tepuianthaceae, người ta biết rất ít về các mối quan hệ của nó với các họ khác trong bộ Cẩm quỳ. Các ước tính gần đây về số lượng loài trong họ này nằm trong khoảng từ 500 [2] tới 800[3] hay 891 loài[4]. Họ này phân bổ rộng khắp thế giới với mật độ tập trung cao tại khu vực nhiệt đới châu Phi, đông nam châu Á và Australasi. Các chi tập trung chủ yếu tại châu Phi[6]. Các loài bao gồm chủ yếu là các loài cây thân gỗ và cây bụi, với một ít loài là dây leo và cây thân thảo. Nhiều loài gây ngộ độc nếu ăn phải. Tên gọi trầm là lấy theo tên gọi thông thường của các loài trong chi Aquilaria, do tại Việt Nam có lẽ không có các loài thuộc chi Thymelaea. Dạng chủ yếu là cây gỗ và cây bụi, với một ít là dây leo hay cây thân thảo.
Mô tả
Cây gỗ có vỏ dai, cành hơi hình chữ chi, lá dai có nhiều gân bên, sít nhau và song song, nổi rõ, cong và hợp ở mép.
Cụm hoa dạng tán hay chuỳ. Hoa có cuống dài, mẫu 4 - 5, 5 vòng; trung đới rộng. Bầu 2 ô.
Quả khô có đài bao lấy.
Phân loại
Thế giới có 50 chi, 650 loài, phân bố ở Toàn cầu, đặc biệt ở châu Phi.
Việt Nam có 7 chi, 15 loài
Phân họ này gồm có 7 phân họ: Thymelaeoideae chủ yếu châu Phi trừ Wilkstroemia, Daphne, Aquilarioideae: 7 chi bé, Gonystyloideae: 3 chi nhỏ Đông Nam Á và Gilgiodaphnoideae, 1 chi ở Trung Phi
Các chi
Peter F. Stevens của APG công nhận 46-50 chi trong họ Thymelaeaceae[4]. Chúng được liệt kê dưới đây. B. E. Herber công nhận 45 chi, loại bỏ Tepuianthus ra khỏi họ, nhập Atemnosiphon và Englerodaphne vào chi Gnidia, Eriosolena vào chi Daphne, và Thecanthes vào chi Pimelea
Các chi có số loài lớn nhất bao gồm: Gnidia (160), Pimelea (110), Daphne (95), Wikstroemia (70), Daphnopsis (65), Struthiola (35), Lachnaea (30), Thymelaea (30), Phaleria (30) và Gonystylus (25).
AetoxylonAmyxaAquilariaArnhemiaAtemnosiphonCraterosiphonDaisDaphneDaphnopsisDeltariaDiarthronDicranolepisDircaDrapetesEdgeworthiaEnglerodaphneEnkleia EriosolenaFuniferaGnidiaGonystylusGoodalliaGyrinopsJeddaKelleriaLachnaeaLagettaLasiadeniaLethedonLinodendronLinostomaLophostomaOctolepisOvidia PasserinaPeddieaPhaleriaPimeleaRhamnoneuron (cây dó giấy)SchoenobiblusSolmsiaStelleraStephanodaphneStruthiolaSynandrodaphneSynaptolepisTepuianthusThecanthesThymelaeaWikstroemia
Phát sinh loài
hát sinh loài phân tử đầu tiên cho họ Thymelaeaceae được công bố năm 2002[2]. Nó dựa trên 2 khu vực của ADN lạp lục. Chúng là gen rbcL và không gian liên gen giữa các gen phiên mã trnL và trnF của ARN. Bốn mươi mốt loài được lấy mẫu. Năm 2008, Marline Rautenbach đã thực hiện một nghiên cứu phát sinh loài trong đó 143 loài dược lấy mẫu. Việc lấy mẫu chủ yếu tập trung trong nhóm Gnidia, nhưng việc lấy mẫu trong phần còn lại của họ đã được thực hiện tích cực trong các nghiên cứu trước đó. Bổ sung cho các dữ liệu rbcL và trnL-F, các chuỗi của khu vực ITS (không gian phiên mã nội tại) của nrADN (ADN ribosome nhân) cũng được sử dụng. Tất cả các nhánh được hỗ trợ mạnh trong các nghiên cứu trước đó đã được phục hồi với sự hỗ trợ thống kê thậm chí còn mạnh hơn.
Giá trị kinh tế
Cho trầm làm tinh dầu và làm thuốc, vỏ làm sợi hay làm giấy, một số làm thuốc.
Aquilaria: Các loài dó trầm (dó bầu, trầm hương), dó me, dó quít cung cấp gỗ cũng như một loại nguyên liệu quý hiếm là trầm hương dùng trong sản xuất hương và nước hoa.
Daphne (thụy hương), được trồng vì hoa của chúng có mùi thơm.
Gonystylus: Có giá trị vì gỗ cứng có màu trắng
Loài Rhamoneuron balansae: Cây dó giấy làm giấy dó.