Tên Khoa học: Lysimachia vittiformis F.H. Chen & C.M. HuTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Trân châu lá dảiTên khác:
Cỏ sống nhiều năm hoặc cây nửa bụi nhỏ, mọc thẳng đứng, cao đến 0,3-0,5 m, có phần dưới hóa gỗ, không có lông ở tất cả các bộ phận. Thân mọc từ gốc cây thường nhiều, tròn hay hơi có cạnh, rất ít khi phân cành, có nhiều tuyến nhỏ ở phần ngọn. Lá mọc xoắn ốc, đôi chỗ ít nhiều mọc chụm gần nhau; cuống lá dài 2-3 mm; phiến lá hình dải hẹp, hơi cong hình liềm, (25-) 40-70 (-90) x (1,8-) 2-2,5 (-3) mm, chất giấy, thót dần và nhọn ở chóp, thót dần về cuống, mép cuộn xuống dưới; gân chính lồi ở mặt dưới nhiều hơn ở mặt trên; các gân bên không thấy ở mặt dưới, đôi khi thấy ở mặt trên và hơi lồi. Hoa màu vàng tươi, mẫu 5, mọc đơn độc ở nách lá, rất ít khi chụm 2-3. Cuống hoa hình sợi rất mảnh, thường dài 1,5-2,5 cm, ở quả dài đến 3 cm. Nụ trước khi nở hình mũi giáo, cỡ 4,5-5,5 x 2 mm, chóp tù, hoa nụ vặn về bên phải. Đài chẻ rất sâu; thùy đài hình tam giác dài, cỡ 1,5 x 0,5 mm, chóp nhọn có ít tuyến ở mép và mặt trong. Tràng dài 5-6 mm, chẻ sâu đến gần gốc; thùy tràng hình mũi giáo, 4-5 x 1,5-2,5 (-3) mm, chóp tù. Chỉ nhị ngắn hơn bao phấn, hợp với nhau ở gốc thành vòng cao khoảng 0,4 mm và đính liền với gốc ống tràng, phần tự do dài khoảng 0,5 mm; bao phấn hình mũi tên kéo dài, khoảng 3,3 x 0,6 mm, đính gốc, chóp có mũi nhọn ngắn, mở bởi lỗ ở đỉnh. Vòi nhị cái mảnh, dài 4 mm; núm nhị cái rất nhỏ. quả nang hình trứng dài, cỡ 3 x 1,5 mm.
Mẫu vật nghiên cứu: Tỉnh Hà Giang, huyện Quản Bạ, xã Thái An, gần bản Lô Thàng, tọa độ địa lý: 23059’50” độ vĩ bắc, 105005’46” độ kinh đông, khoảng 1400 m trên mặt biển, mọc thành bụi nhỏ rải rác ở kẽ các tảng và vách đá vôi kết tinh bị bào mòn mạnh, dưới tán rừng nguyên sinh rậm thường xanh nhiệt đới mưa mùa núi thấp Thông hay hỗn giao. Loài hiếm. L.Averyanov, Phan Kế Lộc, Nguyễn Tiến Vinh HAL 1502, tháng 5-2002 (HN, MO, LE).
Phân bố: Trước đây chỉ mới biết ở điểm lấy mẫu chuẩn ở tây nam tỉnh Quảng Tây, do đó đã từng được coi là loài đặc hữu rất hẹp của tỉnh này. Với phát hiện này của chúng tôi khu phân bố của loài được mở rộng hơn về phía nam, nhưng nhìn chung vẫn là loài thuộc yếu tố đặc hữu rất hẹp của tiểu vùng địa lý thực vật Nam Trung Hoa–Đông bắc Việt Nam, miền Đông Dương, dưới xứ Ấn Độ-Mã Lai, xứ Cổ nhiệt đới.
Sinh thái và sinh học: Cây mọc thành bụi nhỏ rất rải rác ở các khe đá, dưới tán rừng nguyên sinh rậm thường xanh nhiệt đới mưa mùa Thông (các loài cùng ưu thế là Thiết sam giả lá ngắn Pseudotsuga sinensis, Thiết sam núi đá Tsuga chinensis, Thông pà cò Pinus kwangtungensis, có khi xen một số loài cây lá rộng ở núi thấp trên sản phẩm phong hóa của đá vôi. Nếu suy đoán theo dẫn liệu của các trạm khí tượng gần gũi (Nguyễn Khanh Vân et al., 2000) thì có thể thấy chế độ khí hậu nơi Trân châu lá dải Lysimachia vittiformis mọc là nhiệt đới gió mùa gần vùng núi, nhiệt độ trung bình năm chỉ khoảng 16,50C với ít nhất 7 tháng lạnh có nhiệt độ trung bình tháng dưới 170C, với tổng lượng mưa năm trên 2500 mm và không có tháng khô (lượng mưa dưới 50 mm/tháng). Cây nở hoa vào các tháng 4-6, quả chín vào các tháng 5-7. Ở Trung Quốc cây nở hoa vào tháng 5, mọc dưới bóng cây trong rừng trên sườn núi.
Việc phát hiện loài Trân châu lá dải Lysimachia vittiformis F.H. Chen & C.M. Hu ở một điểm của vùng Đông bắc Việt Nam một lần nữa cho thấy giữa vùng này và vùng cực đông nam Trung Quốc, nhất là ở phần núi đá vôi có nhiều loài thực vật chung nhau, trong đó đáng chú ý nhất là những loài thuộc yếu tố đặc hữu chung cho tiểu vùng địa lý thực vật Nam Trung Hoa-Đông Bắc Việt Nam (Phan Kế Lộc et al., 2004). Mặt khác đây cũng là vùng đã và chắc chắn sẽ còn có thể phát hiện thêm nhiều taxôn thực vật mới hay lý thú, kể cả các taxôn bậc cao như chi. Nó là một trong một số ít vùng của nước ta có tính đa dạng thực vật cao nhất, đông thời giàu các taxôn đặc hữu và gần đặc hữu nhất