Tên Khoa học: Camellia sinensis (L.) Kuntze. var. assamica (Mast.) Pieere sec. Phamh. var bohea (L.) Pierre sec. Phamh. var. cantoniensis (Lour.) Pierre sec. Phamh. var. viridis (L.) Pierre sec. Phamh.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Chè; Trà; Chè tuyếtTên khác: Thea sinensis L., Thea assamica Mast, Camellia assamica (Mast.) H. T. Chang, Thea sinensis L. var. assamica (Mast.) Pierre; Thea bohea L., Camellia bohea (L.) Lindl. in Lour, Thea sinensis L. var. bohea (L.) Pierre; Thea cantoniensis Lour., Thea sinensis L. var. cantoniensis (Lour.) Pierre; Thea viridis L., Camellia viridis (L.) Link, Thea sinensis L. var. viridis (L.) Pierre;
Cây mọc hoang dại trên núi cao có kích thước rất lớn có thể cao trên 10m, phân cành nhánh ở đỉnh. Cây gây trồng thường hái búp, cành, nên phân nhánh rất thấp, sát đất và cây nhỏ bé. Lá hình trái xoan, nhọn ở gốc, nhọn tù có mũi ở đầu, phiến lá dày, bóng, dai, mép khía răng cưa đều, men theo cuống; cuống lá dài 1cm.
Hoa mọc đơn độc ở nách lá, gốc có 3 - 4 lá bắc rất dễ rụng. Đài 5, không đều nhau, thường còn lại ở quả, hơi có lông ở cả hai mặt. Tràng có 5 - 9 cánh, những cánh ngoài rất giống lá đài, những cánh trong mềm hơn, nhẵn. Nhị rất nhiều (trên 240 chiếc) xếp làm 4 - 5 dãy, dính vào gốc cánh tràng; bao phấn lắc lư trên trung đới rộng. Bầu 3 ô, có lông mỗi ô có 4 noãn; 3 vòi nhụy dài xếp tỏa ra, nhẵn hay có lông. Quả nang có 3 cạnh, mở làm 3 khe dài; hạt gần tròn, đôi khi hơi nhăn nheo, phôi na
Cây mọc dại trên các núi cao hoặc gây trồng lấy lá làm chè uống.
Gốc ở Bắc Ấn Độ và Nam Trung Quốc, được truyền sang Mianma, Thái Lan, Việt Nam. Chè được trồng khắp nơi ở nước ta, tập trung nhiều ở Vĩnh Phú, Hà Giang, Bắc Thái, Quảng Nam, Đà Nẵng cho tới Đắc Lắc, Lâm Đồng. Cây ưa khí hậu ẩm, đất chua và cần được che bóng ở một mức độ nhất định để đảm bảo hương thơm. Thường ta bẻ cả cành lá nấu nước uống gọi là chè xanh; hoặc hái búp và lá non sao, vò rồi sao để làm chè hương pha nước uống gọi là trà. Lại còn có cách để cho lên men mới phơi sấy khô làm chè mạn hay chế thành chè đen.
Chè có vị đắng chát, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt giải khát, tiêu cơm, lợi tiểu, định thần, làm cho đầu não được thư thái, da thịt mát mẻ, khỏi chóng mặt xây xẩm, bớt mụn nhọt và cầm tả lỵ. Chè đã được sử dụng hơn 2000 năm trước Công Nguyên. Do có cafein và theophyllin, chè là một chất kích thích não, tim và hô hấp. Nó tăng cường sức làm việc trí óc và của cơ, làm tăng hô hấp, tăng cường và điều hòa nhịp đập của tim. Nó cũng lợi tiểu, làm dễ tiêu hóa. Sự có mặt của các dẫn xuất polyphenolic làm cho tác dụng của chè đỡ hại hơn và kéo dài hơn là cafein. Các flavonol và polyphenol làm cho chè có tính chất của vitamin P. Tuy vậy, nếu sử dụng kéo dài với liều cao, chè có thể gây nhiễm độc mạn tính, biểu hiện bởi sự mất ngủ, sự gầy yếu, mất cảm giác ngon miệng, có rối loạn thần kinh.
Chè cũng được sử dụng làm thuốc.