Tên Khoa học: Callicarpa dichotoma (Lour.) Raeusch.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Tử châu lưỡng phân; Tử châu lá nhỏ, Cây thuốc kêTên khác: Porphyra dichotoma Lour.;
Cây nhỏ; cành non nhẵn. Lá cứng, hình mũi mác hay trái xoan - mũi mác, dài 4,5 - 7cm, rộng 2 - 3,5cm, thuôn dần ở gốc, tù và đột nhiên có mũi ở đầu; mép khía tai bèo thành răng lớn hay nhỏ, trừ phần gần gốc; hai mặt phiến đều nhẵn, nhưng ở mặt dưới có tuyến màu nâu, gân nổi rõ ở mặt dưới.
Hoa họp thành xim thưa, có tuyến phủ lông hình sao hay nhẵn, phân nhánh 2 - 3 lần; lá bắc hình dải, thẳng, nhọn, bé; cuống hoa rất ngắn. Hoa màu đỏ. Đài có tuyến, thường nhẵn, có 4 răng rất bé. Tràng nhẵn, có tuyến, ống tràng dài hơn thùy nhiều. Nhị thò ra ngoài; bao phấn có tuyến. Bầu cũng hơi có tuyến, vòi nhụy ngắn, đầu nhụy hình đầu. Quả hạch màu đen, bao trong đài còn lại ở gốc.
Loài phân bố ở Trung quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Ở nước ta có gặp ở các tỉnh Hà Giang, Ninh Bình và các tỉnh Bắc Trung bộ.
Cây mọc dại ở các đồi vùng trung du.
Ra hoa vào mùa hạ, có quả vào mùa thu.
Lá, rễ và toàn cây được sử dụng làm thuốc.
Lá được dùng chữa các loại chảy máu và các loại ngoại thương xuất huyết, liều dùng 2 - 4g, sắc uống hoặc tán bột uống, dùng 3 - 6 lần trong ngày; dùng ngoài tán nhỏ đắp hoặc dùng lá tươi giã nhỏ đắp. Cũng có thể sắc đặc dùng dần; khi dùng lấy bông hoặc vải gạc thấm ướt đắp vào vết thương. Dùng ngoài không kể liều lượng. Lá còn dùng chữa ung nhọt, thũng độc, rắn độc cắn.
Rễ dùng chữa lưng gối đau mỏi, ngoại thương sưng đau. Nhân dân ta cũng thường dùng bó gãy xương. Ở Inđônêxia, người ta dùng làm thuốc điều kinh và dùng chữa đinh nhọt, vết cắn, vết đứt và các vết thương khác.
Ở Quảng Tây (Trung Quốc), người ta dùng toàn cây trị đau xoang dạ dày, trẻ em kinh phong, thấp sang, lỵ, ho, vết thương chảy máu.