Tên Khoa học: Calamus nambariensis Becc.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Tên khác:
Cây leo, cao đến 20 m; đường kính của thân không bẹ 1-3 cm, có bẹ 1,5-6 cm. Lá dài 1,5-2,5 m, có sống lá kéo dài thành roi dài 1 m, xẻ thùy lông chim; thùy lá xếp thành nhóm, đôi khi xếp đều ở phía cuống; bẹ lá màu xanh, có gai màu xanh nhạt, đỉnh màu đỏ, các gai dài ngắn xếp xen kẽ nhau, gai dài nhất không qua 4 cm; gối rõ; thìa lìa không lông hay gai; cuống lá dài 8-20 cm; thùy lá hình mác, có kích thước 40-55 ´ 2,5-7 cm; gân mặt trên không có hay có gai thưa; mép có lông cứng. Cụm hoa dài 0,65-1,3 m, không có dạng roi, thẳng (hơi rủ nếu quá dài); cụm hoa đực phân nhánh 3 lần; cụm hoa cái phân nhánh 2 lần; nhánh con của cụm hoa đực dài 1 cm, mang 8 hoa. Quả hình bầu dục rộng, có kích thước 2,5 ´ 2 cm; vảy quả màu vàng nhạt, có rãnh sâu.
Loài Calamus nambariensis Becc. gần với loài C. platyacanthus Warb. ex Becc. nhưng khác ở thuỳ của lá xếp đều ở phía cuống, gai bẹ ngắn hơn 4 cm, quả hình bầu dục rộng.
Calamus nambariensis Becc.1. bẹ lá; 2a. một phần lá (ở dưới); 2b. một phần lá (ở trên); 3. một phần cụm hoa; 4. quả (1, 2, 3. của T. P. Anh, 2007, vẽ theo mẫu V. X. Phương 6602, HN; 4. theo T. Evans, 2001)
Sinh học và sinh thái: Có quả vào các tháng 3-4. Mọc trong rừng thường xanh, ở độ cao 1400-1800 m so với mặt nước biển.
Phân bố: Tuyên Quang (Chạm Chu). Còn có ở Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Lào.
Giá trị sử dụng: thân mây to, có chất lượng rất tốt; có thể dùng để đan lát, làm đồ mỹ nghệ, có giá trị thương mại cao ở Trung Quốc.