Tên Khoa học: Bulbophyllum coweniorum J. J. Verm. et P. O’ByrneTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Lọng hoa lớnTên khác:
Tên phổ thông
English: Cowen’s Bulbophyllum (tên được đặt theo ông bà Cowen, những người đã trồng thành công loài này trong vườn của họ ở Thái Lan)
Tiếng Việt (đề xuất): Lọng hoa lớn
Sinh thái và Vật hậu học
Bì sinh. Mọc trong rừng cây lá rộng thường xanh trên núi, ở độ cao 800-1500m so với mặt nước biển. Mùa hoa: tháng 3-4; Khi nuôi trồng, mùa hoa tháng 1-3 và 10-12 (Vermeulen, O’Byrne, 2003; Schuiteman et al., 2008).
Phân bố
Việt Nam: Đăk Lăk (dãy Chư Yang Sin) và Kon Tum (núi Ngọc Linh);
Laos: Champasak province (không rõ địa điểm cụ thể, Schuiteman et al., 2008).
Các mối đe dọa và công tác bảo tồn
Phá rừng, đốt nương làm rẫy tự do, du canh du cư, khai thác gỗ ở Lào là nguyên nhân chính làm cho loài này có thể bị tuyệt chủng (Cockel, 2013). Ngoài ra, chúng còn là mục tiêu thương mại (sưu tầm lan), chủ yếu xuất khẩu sang Trung Hoa bao gồm cả mục đích làm thuốc hoặc làm cảnh (Lamxay, 2009). Mặc dù chúng hiện khá phổ biến trong thương mại do nhân trồng nhưng phân bố tự nhiên của chúng ỏ Lào hiện chưa rõ ràng (Vermeulen, O’Byrne, 2003; Schuiteman et al., 2008; Cockel, 2013). Bên cạnh đó, có hai báo cáo về nhân trồng loài này từ tỉnh Champasak nhưng không có địa điểm cụ thể về các dữ liệu sinh thái học (Schuiteman et al., 2008).
Việc ghi nhận loài này ở Việt Nam dựa trên những quan sát đơn lẻ, quàn thể hiện rất suy yếu, đang đứng trước bờ vực tuyệt chủng do sự khai thác quá mức và mất sinh cảnh. Không có đánh giá nào của IUCN về loài này, do vậy, các tác giả đề xuất mức xếp hang DD (thiếu dẫn liệu) mặc dù thực tế, ở cấp độ quốc gia, loài này đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cao (rất nguy cấp - CR).
Giá trị sử dung
Loài này cùng với các loài lien quan có thể được dung làm thuốc cổ truyền để trị một số bệnh viêm phổi, viêm họng, đọng máu, viêm dạ dày mãn tính,... theo phỏng vấn người dân địa phương.
Chưa có các dẫn liệu về các chất có hoạt tính.