Tên Khoa học: Brassica oleracea var. botrytis L.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Súp lơ; Cải bông, Su lơTên khác:
Cây thân thảo, sống hai năm, cao khoảng 30cm. Lá dày, hình thuôn dài, có mép lượn sóng.
Hoa mọc thành ngù đặc tập trung ở ngọn, trên một cuống hoa nạc, tạo thành một khối chắc, đường kính đến 30cm. Nếu không cắt bông, các cuống hoa sẽ dài ra, nở hoa và kết quả. Quả cải hẹp và dài, có một mỏ hình nón. Hạt nhỏ hơn hạt cải bắp (550 hạt cân nặng 1 gam).
Sup lơ bắt nguồn từ loài cải bắp - Brassica oleracea L., đã được trồng nhiều ở các nước châu Âu và các nước ôn đới trên thế giới với nhiều giống trồng khác nhau. Sup lơ được nhập trồng ở nước ta vào cuối thế kỷ 19, hiện nay được trồng tốt ở nhiều tỉnh vùng núi cao như Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Lâm Đồng…
Nhiệt độ thích hợp 8 - 180C; nếu trồng ở nơi có nhiệt độ cao trên 250C (tới 270C) rau ăn không ngon; nếu rét quá, cây chậm ra hoa hoặc hoa rời rạc.
Có hai loại Sup lơ:
1. Sup lơ đơn: Lá nhọn và dài, mặt lá có phấn trắng, ngù hoa trắng, nụ hoa nhỏ, mịn mặt, ăn mềm; thường trồng sớm, gieo tháng 7 - 8, trồng tháng 8 - 9 ở miền Bắc Việt Nam.
2. Sup lơ kép: Lá mỏng, mọc sít, nõn tía, hoa dày, nặng, thường gieo tháng 10 - 11, trồng tháng 11 - 12; nếu gieo muộn, cây cho hoa nhỏ, dễ lên ngồng.
Lúc mới trồng cần che nắng, tưới nước giữ vừa ẩm, khi hoa đã nhú chỉ tưới vào gốc, không tưới lên hoa.
Sup lơ là loại rau ăn quen thuộc của nhân dân ta. Có thể xào, nấu canh, ăn sống. Người ta đã biết thành phần hóa học của sup lơ gồm: nước 90,9%, protein 2,5%, glucid 4,9%, xơ 0,9%, tro 0,8% và muối khoáng (mg%): calcium 26,0, phosphor 51,0, sắt 1,4; vitamin (mg%): C 70, B1 0,11, B2 0,01, PP 0,6 và caroten 0,25.
Sup lơ cũng được sử dụng làm thuốc cùng có công dụng như bắp cải hay su hào.