Tên Khoa học: Brassica juncea (L.) Czern. et Coss.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Cải bẹ xanh; Cải xanh; cải canh; cải cay; giới tửTên khác: Sinapis juncea L.;
Cây thảo hằng năm, cao 40 - 60cm hay hơn, rễ trụ ít phân nhánh. Lá mọc từ gốc, hình trái xoan, tù, có cuống lá có cánh với 1 - 2 cặp tai lá; phiến dài tới 1m, rộng 60cm, hơi hay có răng không đều; các lá ở thân tiêu giảm hơn; các lá phía trên hình dải - ngọn giáo dài 5cm, rộng 5-10mm.
Hoa vàng nhạt, khá lớn, cao 1,5cm, xếp thành chùm dạng ngù. Quả cải 35mm, tận cùng bởi một mũi nhọn, dài 4 - 5mm, mở thành các van lồi, có đường gân giữa rõ. Hạt hình cầu, có mạng màu đen đen, dài 2mm. Có nhiều thứ khác nhau.
Loài của miền nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á, có nhiều ở vùng Trung Á. Ở nước ta, cây được trồng phổ biến khắp cả nước.
Có thể trồng quanh năm, trừ những tháng nóng và mưa nhiều. Ở miền Bắc Việt Nam có hai vụ. Vụ chiêm tháng 2 - 6, gieo 30 - 35 ngày sau thì thu hoạch. Vụ mùa tháng 8 - 11, gieo 20 - 25 ngày thì nhổ cấy, 30 - 35 ngày sau có rau ăn được.
Cây trồng lấy lá làm rau ăn (Có thể dùng ăn sống, muối dưa hay nấu kèm với thịt, cá, tôm…). Hạt có thể ép lấy dầu chế mù tạc làm gia vị và dùng trong công nghiệp.
Trong y học phương Đông, hạt cải xanh được dùng làm thuốc thông khiếu, an thần, hóa đàm, tiêu thũng và dùng trị ho, viêm khí quản, làm ra mồ hôi, làm cao dán trị đau dây thần kinh.
Ở Trung Quốc, hạt và cả cây cũng dùng làm thuốc chữa ho, long đờm, tiêu thũng, giảm đau.