Tên Khoa học: Bauhinia malabarica Roxb. 1832 (CCVN, 1:1075)Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Móng bò tai voi; Tai tượng; Chân trâu; Quạch tai voiTên khác: Piliostigma malabaricum (Roxb.) Benth. 1852 (CCNVN, 1:818). B. acida Reinw. ex Korth. 1841. - Piliostigma acidum (Reinw. ex Korth.) Benth. 1852. - P. malabaricum (Roxb.) Benth. var. acidum (Korth.) De Wit, 1956. - Casparea castrata Hassk. 1848. - Bauhinia platyphylla Zipp. ex Miq. 1855. - B. rugolosa Blume ex Miq. 1855;
Cây gỗ cùng gốc cao tới 15 m. Lá có cuống dài 2 - 4 cm; phiến xoan đến tròn, chia đôi đến 1/6 - 1/3, có gốc rộng, đường kính 4 - 8 cm, cụt hay hình tim ở gốc, tròn rộng ở đầu các thùy, màu lục lờ hay mốc bạc ở mặt dưới; gân 9 - 11 .
Cụm hoa thành chùm ngắn, đơn hay phân nhánh, dài tới 5 cm. Hoa có cuống dạng sợi 1- 2 cm; nụ hoa hình chùy, 6 - 10mm, (các nụ cái lớn hơn các nụ đực); đài chia làm 2 - 3 (5) thùy; cánh hoa trắng, thuôn, cỡ 10mm có móng ngắn. Hoa đực có 10 nhị; hoa cái có 10 nhị lép; bầu có cuống, dài 5 - 6 mm, có lông mềm rậm. Quả không mở hay mở chậm, dẹp, có mũi dài thẳng, cỡ 20 - 25 x 1 - 1,5cm, không lông; hạt 10 - 30, thuôn, đường kính 7mm.
Loài của Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Philippin và Inđônêxia. Ở Việt Nam, có gặp từ Quảng Trị, Đắc Lắc, Khánh Hòa đến Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Tây Ninh.
Thường gặp trong các rừng rụng lá gió mùa khô, ở cao độ thấp. Ít khi thấy trong rừng rậm ẩm thường xanh. Mùa hoa tháng 5 - 6, quả chín và rụng tháng 2 - 3 hằng năm.
Lá còn non có vị chua có thể dùng làm rau gia vị, hoặc ăn sống trộn dầu giấm, hoặc nấu chín như các loại rau khác. Ở Campuchia, người ta dùng lá để trị bệnh ghẻ. Thịt quả rơi xuống đất sau mùa khô, thường được các thú rừng tìm đến để ăn, có tác dụng đối với bệnh đường ruột của chúng. Loài cây này có quả vào lúc mà thức ăn cho động vật hoang dại khá hiếm, nên có thể sử dụng làm cây thức ăn tốt cho các loài động vật này.
Ở Philippin, các hoa non thường được dùng hãm ( 10g - 20g hoa trong nửa lít nước sôi ) lấy nước uống trong để trị lỵ cũng như nước sắc vỏ cây; lá được dùng đắp vào đầu khi bị sốt kèm theo đau đầu.
Ở Inđônêxia ( Timor ), vỏ dùng giã nát làm bột cầm máu vết thương.