Tên Khoa học: Aucklandia lappa DC.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Vân mộc hương; Cúc mộc hương; mộc hương; át lânTên khác: Saussurea lappa C.B. Clarke;
Cây thảo, sống lâu năm, rễ mập. Thân hình trụ rỗng, cao 1,5 - 2m. Vỏ ngoài màu nâu nhạt. Lá mọc so le; phiến chia thùy không đều ở phía cuống, dài 12 - 30cm, rộng 6 - 15cm, mép khía răng, có lông ở cả hai mặt nhất là ở mặt dưới; cuống lá dài 20 - 30cm. Các lá ở trên thân nhỏ dần và cuống cũng ngắn dần, lá trên ngọn hầu như không có cuống, hầu như ôm lấy thân.
Cụm hoa hình đầu, màu lam tím. Quả bế hơi dẹt, màu nâu nhạt lẫn những đốm màu tím.
Loài cây của Trung Quốc, được nhập trồng ở một số nơi như Sa Pa, Tam Đảo và Đà Lạt.
Cây thích nghi với khí hậu vùng núi cao. Ưa đất phù sa tơi xốp, thoát nước. Nhân giống bằng hạt.
Ra hoa tháng 7 - 8; có quả tháng 8 - 10.
Rễ của cây mộc hương được dùng làm thuốc hành khí chỉ thống, kiện tỳ tiêu tích, dùng trị mọi chứng đau, trúng khí độc bất tỉnh, tiểu tiện bế tắc, đau bụng, khó tiêu, trướng đầy. Loại mộc hương nướng lại được dùng làm thuốc gây trung tiện, làm ngừng nôn mửa và trị được tả lỵ.
Thường dùng 0,5 - 1g nhai nuốt hoặc mài với nước uống, có khi dùng tới 3 - 6g sắc nước hoặc tán bột uống.