Tên Khoa học: Artemisia annua L.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Thanh hao; Thanh cao hoa vàng; ngải hoa vàng; ngải siTên khác:
Cây thảo mọc hằng năm, thơm, cao đến 1m; thân có rãnh, gần như không lông. Lá có phiến xoan, 2 - 3 lần kép thành đoạn hẹp nhọn, không lông.
Chùy cao ở ngọn mang chùm dài, hẹp; hoa đầu cao 1,8 - 2mm; lá bắc ngoài hẹp, có lông xanh; lá bắc giữa và lá bắc trong, xoan rộng; hoa toàn hình ống, cỡ 15 cái; hoa ngoài cái, hoa trong lưỡng tính. Quả bế nhẵn, cao 0,5mm, không có mào lông.
Phân bố ở Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam. Ở Việt Nam, có gặp ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang.
Cây mọc hoang ở ruộng, bờ ruộng, dọc theo các làng mạc vùng núi. Cũng được gây trồng.
Mùa hoa tháng 6 - 11; mùa quả tháng 10 - 3. Thường lụi vào tháng 5.
Cây chứa artemisinin và tinh dầu.
Ngải hoa vàng được dùng chữa sốt nóng khát nước, phiền nhiệt ra mồ hôi, tối nóng sáng mát, hâm hấp sốt lâu ngày (lao nhiệt) sốt rét cơn, bệnh vàng da và bệnh ngoài da.
Ngải hoa vàng cùng các chiết suất của nó đã được dùng chữa bệnh sốt rét từ lâu. Chúng ta đã chọn được giống Ngải hoa vàng có hàm lượng artemisinin cao, có thể thu được từ 3,5 - 5kg trên một tấn nguyên liệu lá. Chúng ta cũng đã sản xuất ra các mặt hàng artemisinat có hiệu quả cao trong điều trị sốt rét ác tính.