Tên Khoa học: Aristolochia quangbinhensis T.V.DoTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Phòng kỷ quảng bìnhTên khác:
Dây leo thân gỗ lâu năm, rễ nhiều. Thân có lông nhung màu nâu vàng khi non, nhẵn khi già. Cuống lá dài 1.5-2.5 (-3) cm, thẳng, nhiều lông nâu vàng; Phiến lá hình elip thuôn dài đến elip, dài (6 -) 8-13 (-14) cm, rộng 3-5 (-6) cm, mũi nhọn, mặt trên nhẵn, màu xanh đậm, mặt dưới đầy lông nhung nâu vàng, gân chính 3, mạng chân vịt, gân phụ 7-8 cặp, mạng lông chim, gân nổi trên cả hai mặt. Hoa nách lá, cô độc. Cuống dài 1,5-2 cm, rủ xuống, tím, nhiều lông tơ. Cuống, lá bắc và bao hoa đông bao phủ bởi lông đa bào màu vàng-nâu. Bao hoa hình chữ S, dài (3 -) 3,2-3,5 cm, bên ngoài nhiều lông màu vàng nâu tối, gân hoa song song, bên trong nhẵn. Bầu thuôn dài, (0,8) dài 1-1,2 cm, đường kính 0,3-0,4 cm., màu vàng-xanh, noãn nhiều. Ống hình trứng, dài (1,2) 1,5-1,8 cm, đường kính 0,5-0,6 (-0,8) cm, bên ngoài màu trắng, bề mặt bên trong màu tím đên, ống cong mạnh mẽ tại gốc. Vành ba thùy, hình chuông, đường kính 2-2,5 (-3) cm, màu tím-hồng ở cả hai mặt, mặt ngoài nhiều lông xồm xoàm, mặt trong mịn, ba thùy bất xứng; họng tròn, tím-đen; nhị 6 trong 3 cặp; bao phấn thuôn dài, dài (2 -) 2,5-3 mm, màu vàng, mở dọc . Quả chưa thấy.
Loài gần giống: Loài mới có đặc điểm hình thái tương tự với các loài Aristolochia championii Merrill (Nam Trung Quốc), A. vallisicola Yao (bán đảo Malaysia) và A. versicolor Hwang (Nam Trung Quốc ). Tuy nhiên, loài mới được phân biệt với các loài kể trên bởi những đặc trưng hình thái sau: cuống lá dài 1.5–2.5(–3) cm, phiến lá hình e líp đến e líp thuôn; cuống cụm hoa dài 1.5–2 cm; đài hình chuông, đường kính 2–2.5 (–3) cm, duy nhất màu hồng, phớt tím trên cả 2 mặt, bao hoa không có các chấm màu và gân song song, bao hoa 3 thùy không đều nhau, mép các thùy cuộn tròn.
Phân bố: Mới chỉ gặp ở huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình, Việt NamSinh thái: Loài mới được phát hiện dưới tán rừng lá rộng thường xanh trên núi đất thấp, gần với khu vực vùng đệm Vườn Quốc Gia Phong Nha-Kẻ Bàng, Quảng Bình, nơi đây đang chịu những tác động mạnh từ hoạt động đốt, phá rừng mở rộng diện tích đất canh tác, làm suy giảm vùng phân bố và kích thước của quần thể.Vật hậu học: Mẫu vật có hoa thu được vào tháng 4, tháng 5, nhưng có khả năng chúng bắt đầu có hoa vào tháng 3.
Đề nghị tình trạng bảo tồn: Đoàn nghiên cứu mới chỉ phát hiện được 2 cá thể của loài mới này trong tự nhiên cách nhau 50m. Do đó, khả năng vùng phân bố của loài này là nhỏ hơn 20km2, số lượng cá thể thấp. Vậy theo tiêu chuẩn của IUCN (2013), loài mới được đề nghị ở mức Sắp nguy cấp Vulnerable (VU D2) hoặc Nguy cấp (EN).