Tên Khoa học: Aristolochia kwangsiensis Chun & How ex LiangTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Mã đậu linh quảng tây; Mã đậu linh lá to, Đại diệp mã đậu linh, Viên diệp mã đậu linhTên khác:
Đặc điểm nhận dạng:
Cây sống nhiều năm, thân leo hoá gỗ, có rễ củ to. Thân non và lá non có nhiều lông. Lá già chỉ có lông ở mặt dưới và ở gân mặt trên. Phiến lá dạng trứng tròn: 23-34 x 22-32 cm; chóp lá tù, gốc lõm dạng tim; có 5 đôi gân bên gần đối xứng nhau; gân mạng nổi rõ ở mặt dưới lá. Cụm hoa có 1-2 hoa ở nách lá. Hoa có cuống; cả cuống và bao hoa cong hình chữ "S"; ống bao hoa xanh nhạt, dài đến 7,5 cm, phần lớn nhất ở chỗ cong có đường kính khoảng 1,4 cm; các thuỳ của ống hình tam giác, mặt tím hồng, mặt trên có các gai nổi màu hồng đậm; họng ống tròn, màu vàng. Nhị 6. Bầu 6 ô; vòi nhuỵ 6. Quả màu nâu vàng, gần hình trụ tròn, dài 8-10 cm, có 6 cạnh lồi, đỉnh có đuôi dài khoảng 3mm. Hạt hình trứng, màu nâu, cỡ 5 x 4 mm, mặt hơi lõm.
Sinh học và sinh thái:
Ra hoa vào tháng 5, mùa quả tháng 6-9. Cây tái sinh chồi ở thân vào mùa xuân. Chưa rõ khả năng trồng bằng hạt. Cây ưa sáng và có thể chịu bóng; mọc rải rác trên đất lẫn đá, ở rừng thứ sinh, thưa, ở độ cao tới 1000 m.
Phân bố:
- Trong nước: Hà Giang (Mèo Vạc), Cao Bằng (Thạch An), Lạng Sơn (Cao Lộc, Đồng Đăng), Hải Phòng (Cát Bà).
- Thế giới: Trung Quốc.
Giá trị:
Loài quý, hiếm, rễ củ làm thuốc chữa đau bụng thổ tả, đau xương, đau gân, bệnh về gan, mật.
Rễ củ được sử dụng làm thuốc uống trong chữa viêm dạ dày, ruột, đau họng và dùng ngoài chữa vết thương, nhọt độc và rắn cắn.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), rễ củ cũng được dùng trị viêm dạ dày, viêm ruột cấp tính, loét dạ dày và hành tá tràng, đau họng, đau khớp xương, đau dạ dày, lỵ amip và cao huyết áp.
Tình trạng:
Loài đã từng bị khai thác lấy nguyên liệu làm thuốc. Trong các điểm phân bố trước đây, tại Thạch An (Cao Bằng) nay không còn tìm lại được. Khu phân bố chia cắt xa nhau, bị tàn phá nghiêm trọng.
Phân hạng: EN A1c,d
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "sẽ nguy cấp" (V). Cần có kế hoạch điều tra, xác định điểm phân bố còn sót lại để bảo vệ. Đồng thời đưa về trồng, nghiên cứu nhân giống để phát triển.
Tài liệu dẫn: SĐVN (2007): 93; STCT: 560-561; TCDL, 6(4): 98; TCSH, 17(4-CĐ): 32.