Tên Khoa học: Arctium lappa L.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Ngưu bàng; Ngưu hoàng; cải thướcTên khác: Lappa vulgaris Hill; L. major Gaertn.;
Cây thảo lớn, sống 2 năm, có thân thẳng, có khía và phân nhánh, cao 1 - 2m. Lá hình trái xoan, mọc thành hình hoa thị ở gốc và mọc so le ở trên thân; phiến lá to rộng tới 50cm, gốc hình tim, đầu tù hay nhọn, mép có răng hay lượn sóng, có nhiều lông trắng ở mặt dưới.
Hoa đỏ hay tím nhạt hợp thành đầu to 3 - 4cm; các lá bắc của bao chung kéo dài thành mũi nhọn, có móc ở chóp. Quả bế, màu xám nâu điểm hồng, có nhiều móc quặp, phía trên có một mào lông ngắn màu vàng vàng.
Loài của châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc. Ta nhập trồng từ năm 1959 làm thuốc ở vùng núi cao Lai Châu, Lào Cai, Nghĩa Lộ.
Cây thích hợp với khí hậu vùng núi cao. Nhân giống dễ bằng hạt.
Ra hoa tháng 6 - 7; có quả tháng 8 - 9 của năm thứ hai.
Cây ngưu bàng đã được sử dụng ở Việt Nam từ lâu. Trong Bản thảo Nam dược, cụ Nguyễn Hoành đã nói đến việc sử dụng lá ngưu bàng non gọi là rau cẩm bình nấu canh ăn rất tốt, hạt (quả) chữa phong lở, mày đay, bụng sình.
Trong Y học phương Đông, quả của ngưu bàng dùng làm thuốc lợi tiểu, giải nhiệt, có thể trị được phù thũng, đau họng, sưng họng, phế viêm, cảm cúm, tinh hồng nhiệt. Đối với mụn nhọt đã có mủ và viêm tuyến lâm ba, có tác dụng thúc mủ nhanh, với đậu chẩn cũng làm cho chóng mọc. Ngày dùng 6-10g, dưới dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.
Rễ được dùng làm thuốc thông tiểu tiện, ra mồ hôi, tẩy máu, chữa tê thấp, đau và sưng khớp; còn dùng trị mụn nhọt, cụm nhọt, áp xe, bệnh nấm da, hắc lào, eczema, viêm hạch, vết thương có mủ. Thường dùng dưới dạng nước sắc 40g/lít. Dùng ngoài lấy rễ tươi nấu nước rửa. Bên ngoài dùng lá tươi giã đắp trị nọc độc rắn cắn, đắp trị bệnh về phổi mạn tính, cúm kéo dài và các chứng đau khác.