Tên Khoa học: Apium graveolens L.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Rau cần; Cần tây; cần tàuTên khác:
Cây thảo sống 1 - 2 năm; có thân mọc đứng, cao khoảng 1m, có rãnh dọc. Lá ở gốc có cuống, xẻ ba thùy hình tam giác; các lá giữa và lá ngọn không có cuống, cũng chia ba thùy, xẻ 3 hoặc không chia thùy.
Hoa màu trắng hay xanh lục, xếp thành tán. Các tán ở đầu cành có cuống dài hơn các các tán bên. Không có bao chung. Các quả chia đôi mang 2 quả hình cầu, dạng trứng, nhẵn. Có cạnh lồi chạy dọc không nổi rõ lắm.
Cây có nguồn gốc từ bờ biển Đại Tây Dương và Địa Trung Hải, được trồng từ lâu đời ở các nước phương Tây. Việt Nam. nhập trồng chủ yếu làm rau ăn.
Cây ưa khí hậu mát, nhiệt độ dưới 21o C và cần có thời kỳ rét dưới 10o C trong vài ngày để sinh trưởng và phát triển. Do vậy, cần tây được trồng chủ yếu ở miền Bắc Việt Nam.
Ra hoa vào tháng 4.
Cần tây được dùng làm rau ăn sống, xào hay nấu chín. Rau này chứa các vitamin A, B và C, các nguyên tố khoáng và kim loại, các amino acid và tinh dầu (ở trong cây 1%, ở trong hạt 3%).
Cần tây được sử dụng làm thuốc dưới dạng nước chiết, hãm hay sắc uống trong chữa suy nhược cơ thể do làm việc quá sức, trị suy thượng thận, tiêu hóa kém, trạng thái thần kinh dễ bị kích thích, mất khoáng chất (ho lao), tràng nhạc, sốt gián cách, thấp khớp, thống phong, sỏi niệu đạo, sỏi thận, bệnh về phổi, đau gan vàng da, chứng béo phì, thừa máu. Dùng ngoài trị vết thương mụn nhọt, nứt nẻ.
Nước sắc thân cây hay củ cần tây dùng ngâm chân chữa nứt nẻ da chân.