Tên Khoa học: Angiopteris confertinervia ChingTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Móng ngựaTên khác:
Dương xỉ sống lâu năm, cao gần 2m. Thân rễ ngắn, mang một chùm lá kép lông chim hai lần. Thân được bao kín bởi nhiều cuống lá. Lá có cuống dài 0,5m hay hơn; lá chét bậc hai rất không đều: những cái trên và cái tận cùng to hơn, dài hơn nhiều; những cái dưới ngắn hơn, hình bầu dục hay ngọn giáo nhiều hay ít. Gân rất sít nhau, mỗi cm có khoảng 20 gân.
Ổ túi bào tử tròn, xếp sít nhau, thường gồm khoảng 10 - 20 túi bào tử; bào tử tròn, có màng màu đo đỏ.
Phân bố ở Lào, Việt Nam… Ở Việt Nam, có gặp ở các tỉnh Thái Nguyên, Hà Tây và Hòa Bình.
Cây mọc trong thung lũng và rừng ẩm ướt, ven suối. Sinh sản từ tháng 4 đến tháng 8.
Cuống lá non, tước vỏ, thái nhỏ có thể dùng xào hay nấu canh ăn. Thân rễ (củ) chứa các thành phần tính theo g%: nước 92,8, protein 0,8, glucid 3, xơ 2,6 và tro 0,8; theo mg%: calcium 107, phosphor 10, caroten 0,16 và vitamin C 17. Thân rễ này, rửa sạch, gọt vỏ, thái mỏng, ngâm nước một ngày đêm hoặc luộc kỹ, dùng xào lẫn thức ăn hoặc độn cơm ăn.