Tên Khoa học: Althaea rosea (L.) Cav.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Thục quỳ; Mãn đình hồngTên khác:
Cây sống lưu niên; thân thẳng, có lông, cao 2 - 3m. Lá mọc so le, dạng tim, chia thùy, rộng tới 30cm. Hoa có cuống ngắn, ở ngọn thân, to, rộng 10 - 12cm, trắng, hồng, đỏ, thường xếp từng đôi; lá đài phụ 5 - 8 có lông trắng; đài cao 2 - 3cm; ống nhị ngắn, bầu 25 - 45 ô 1 noãn. Quả nằm trong đài, các phân quả không mở.
Người ta đã tạo ra những giống trồng có hoa kép hay bán kép. Hoa kép được tạo thành do sự biến đổi của các chỉ nhị thành cánh hoa; các hoa này vẫn sinh sản được và tạo ra hạt. Các hoa này được bao bởi một vòng gồm các cánh hoa ngoài có cỡ lớn hơn các cánh hoa ở giữa. Một số hoa khác lại không có vòng cánh như vậy mà hoa lại phồng lên, có dạng một cái nùi thoa phấn.
Màu sắc của hoa biến đổi từ trắng sang đỏ sẫm và tím, qua tất cả các màu trung gian, kể cả màu vàng.
Loài của Xyri, Trung Quốc. Việt Nam có nhập trồng làm cảnh ở nhiều nơi từ lâu đời, nhiều nhất là ở Đà Lạt. Cây trồng bằng hạt, từ khi gieo hạt đến khi ra hoa là 100 - 105 ngày. Hoa nở quanh năm, chủ yếu từ tháng 7 đến tháng 9; hoa sai, đẹp nhưng ít hương thơm.
Hoa, hạt, rễ, lá được dùng làm thuốc.
Hoa được dùng trị đại tiểu tiện không thông suốt, kinh nguyệt không đều, bạch đới, ong và bò cạp đốt, bỏng lửa. Hạt dùng trị thủy thũng, đại tiểu tiện không thông suốt, sỏi niệu đạo. Rễ dùng trị dao chém, bỏng, lỵ; còn dùng chữa viêm ruột, cảm nhiễm niệu đạo, đái đỏ, viêm cổ tử cung, bạch đới. Ở Ấn Độ, hạt được dùng trị sốt, rễ dùng trị lỵ, và hoa dùng trị thấp khớp.
Hoa lá dùng ngoài trị mụn nhọt sưng lở, bỏng và cháy.