Tên Khoa học: Alstonia scholaris (L.) R. Br.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Sữa; Mò cua; mồng cuaTên khác: Echites scholaris L.; Tabernaemontana alternifolia Burm.;
Cây to cao khoảng 10 - 20m, vỏ nứt nẻ màu xám. Cành mọc vòng. Lá mọc vòng 5 - 8 cái, tập trung ở đầu cành; phiến lá dày hình bầu dục.
Hoa nhỏ, màu trắng lục, mọc thành xim tán ở nách lá, mùi thơm hắc, nhất là về đêm. Quả gồm hai đại dài và hẹp, chứa nhiều hạt. Hạt có mào lông ở hai đầu.
Loài cổ nhiệt đới, mọc hoang và cũng được trồng khắp Việt Nam.
Cây ưa sáng, sinh trưởng nhanh, thường mọc ở ven rừng và ở những nơi ẩm như ven sông, ven suối. Tái sinh bằng chồi mạnh. Có thể trồng bằng cây con hay bằng cành.
Ra hoa vào tháng 8 - 9; có quả chín tháng 1 - 2.
Gỗ có thể làm gỗ dán và các đồ dùng thông thường. Thường được trồng làm cảnh, trồng ven đường phố và quanh các công trình công cộng để lấy bóng mát.
Vỏ thân chứa nhiều alcaloid (0,16 - 0,27%), được sử dụng nhiều làm thuốc.
Thường dùng làm thuốc bổ, chữa thiếu máu, kinh nguyệt không đều, sốt rét cấp và mạn tính, đau bụng ỉa chảy, kiết lỵ, viêm khớp có sưng nóng đỏ đau, bệnh ngoài da lở ngứa. Vỏ cây sắc đặc dùng ngậm chữa sâu răng. Ở Việt Nam, vỏ sữa được dùng làm dược liệu chế rượu bổ Ditakina.
Ở Ấn Độ, vỏ được dùng trị sốt rét và cũng dùng trị ỉa chảy, lị và trị rắn cắn; dịch cây đắp các vết loét. Ở Thái Lan, vỏ thân dùng trị lỵ, trị cảm và viêm phế quản. Ở Trung Quốc , vỏ và lá dùng trị ho gà, viêm khí quản mạn tính, suyễn khan, sốt rét, cảm mạo phát sốt, sưng amygdal, viêm gan cấp tính, phong thấp, đòn ngã, gãy xương, mụn nhọt sưng đỏ.