Tên Khoa học: Acanthus ilicifolius L.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Ô rô nước; Ô rô to; ô rô gai; lão thử cânTên khác:
Cây thảo cao 0,5 - 1,5m, thân tròn màu xanh, có nhiều rãnh dọc. Lá mọc đối, sát thân, hầu như không cuống, phiến cứng, mép lượn sóng, có răng cưa không đều và có gai nhọn.
Hoa màu xanh lam hay trắng, xếp 4 dãy thành bông. Quả nang dạng bầu dục, màu nâu bóng, có 4 hạt dẹp, có vỏ trắng trắng và xốp.
Loài của Ôxtrâylia, Ấn Độ, Trung Quốc (đảo Hải Nam), Xri Lanca, Philippin, Úc Châu và Nouvelle Guinee, Thái Lan và Việt Nam. Ở Việt Nam, cây mọc ven biển, có khi cả trong đất liền, ven sông suối ở Hòa Bình, Ninh Bình.
Cây mọc ở vùng ven sông, vùng biển nước lợ; gốc rễ ngập trong nước.
Mùa hoa quả tháng 10 - 11, trái chín vào tháng 4 -7 dương lịch
Toàn cây thường được dùng làm thuốc hưng phấn, trị đau lưng nhức mỏi, tê bại, ho đờm, hen suyễn. Rễ và lá còn được dùng trị thủy thũng, đái buốt, đái dắt và chữa thấp khớp.
Ở Cà Mau, nhân dân dùng đọt cây ô rô nấu nước với quả hay lá cây quao để trị đau gan. Lá và rễ cũng được dùng để ăn trầu, đánh cho nước trong và cũng dùng chữa bệnh đường ruột.
Ở Trung Quốc, rễ cây được dùng trị viêm gan, gan lách sưng to, bệnh hạch bạch huyết, hen suyễn, đau dạ dày và u ác tính.