Tên Khoa học: Acanthus ebracteatus VahlTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Ô rô; Ô rô biể, nÔ rô hoa nhỏTên khác: Acanthus ilicifolius Lour.;
Cây nhỏ cao 1 - 1,5m; thân tròn, không lông. Lá mọc đối, phiến không lông, mép có răng cứng rất nhọn.
Bông ở chót nhánh, mang hoa mọc đối màu trắng, mỗi hoa có một lá bắc nhỏ; tràng có màu trắng, dài đến 2,2cm; nhị 4, có lông ở bao phấn. Quả nang dài 2cm; hột 4, dẹp.
Loài của Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam, Nam Trung Quốc (Hải Nam), đến Malaixia, Inđônêxia. Ở Việt Nam gặp phổ biến ven biển.
Thường mọc tại các bãi nước lợ, ở bãi biển, cửa sông và hai bên bờ sông gần biển.
Ra hoa quanh năm, chủ yếu từ mùa xuân đến mùa thu.
Toàn cây được dùng làm thuốc sắc uống trị bệnh đường ruột và đái buốt, đái dắt; ở Thái Lan, được dùng giã đắp trị vết thương nhiễm trùng.
Lá giã ra đắp trị rắn cắn; ở Thái Lan, lá được dùng phối hợp với hồ tiêu làm viên thuốc bổ tăng tuổi thọ. Lá cũng được dùng làm thuốc gội đầu, làm mượt tóc.
Hạt làm thuốc trị giun.