Tên Khoa học: Acanthopanax trifoliatus (L.) Voss.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Ngũ gia bì gai; Ngũ gia ba lá; ngũ gia bì hương; xuyên gia bì; thích gia bìTên khác: Zanthoxylum trifoliatum L.; Acanthopanax trifoliatum (L.) Merr.; Eleutherococcus trifoliatus (L.) Hu; Plectronia chinensis Lour.; Acanthopanax aculeatum (Ait.) H. Wite;
Mô tả
Cây bụi trườn, vườn cao hay dài đến 2-7m, có phân cành, vỏ lúc non màu xanh, khi già màu nâu xám, có nhiều gai nhọn sắc; cuống dài 2,5-3,5 cm, có gai; 3-5 lá chét, từ hình trừng thuôn có mép khía răng khô đến hình thuôn dài ở mép có gai nhọn (var. setosus Li), lá chét giữa thường lớn hơn các lá chét bên; kích thước lá chét thường 4-8 x 1,5-3 cm. Cụm hoa dạng chùm tán, mọc ở đầu cành; hoa màu vàng ngà hay trắng ngà, có cuống mảnh, dài 0,7-1 cm. Đài 5, nhỏ; cnhs hoa 5 hình tam giác tròn đầu. Nhị 5, chỉ nhị dài hơn cánh hoa. Bầu 2 ô, đầu nhụy chẻ đôi. Quả hình cầu, hơi dẹt, khi chín màu tím đen. 1-2 hạt nhỏ. Vỏ thân, vỏ rễ và lá vò nát có mùi thơm đặc biệt.
Loài này có hai thứ ở Việt Nam: Acanthopanax trifoliatus (L.) Voss. var. trifoliatus và A. trifoliatus (L.) Voss. var. setosus L.
Loài của Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Đông Dương cho tới Philippin. Ở Việt Nam có gặp ở Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Hòa Bình.
Mọc ở rừng rậm nhiệt đới thường xanh mưa mùa ẩm, ở độ cao 200 - 1500m. Thích nghi ở ven suối, vách đá ẩm, ven đường mòn.
Sinh học và sinh thái:
Mùa hoa tháng 8-9, quả tháng 9-12. Gieo giống tự nhiên chủ yếu bằng hạt; Cây có khả năng tái sinh chồi khoẻ sau khi chặt. Cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng, thường mọc thành bụi ở ven rừng núi đá vôi ẩm, bờ khe suối hoặc bờ nương rẫy; độ cao từ 350-1600 m.
Lúc nhỏ ưa bóng và ẩm, khi lớn ưa sáng và có thể sống trong điều kiện khắc nghiệt về đất đai và khí hậu. Tái sinh bằng chồi, rễ và giâm cành.
Phân bố:
- Trong nước: Lai Châu, Sơn La, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nam.
- Thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Lào, Campuchia, Indônêxia.
Giá trị:
Vỏ thân và rễ dùng làm thuốc bổ, có tác dụng kích thích tiêu hoá, chống đau nhức xương khớp. Lá dùng làm trà uống, lá tươi bó gãy xương.
Tình trạng: Là cây thuốc có giá trị sử dụng phổ biến nên đã bị khai thác nhiều. Cây còn bị tàn phá do nạn phá rừng và mở rộng vùng canh tác, hiện đã trở nên hiếm dần.
Vỏ rễ thân, lá làm thuốc bổ, tăng lực, mạnh gân cốt, kích thích tiêu hóa, ăn ngon miệng, ngủ tốt, chữa đau nhức xương, mỏi gối, đau lưng, thấp khớp, ho, cảm mạo, viêm ruột, đi tả, sỏi thận.
Vỏ được coi như một vị thuốc bổ. Nước sắc và rượu chế từ vỏ cây được dùng phổ biến làm thuốc bổ nâng cao sức của các cơ, tăng trí nhớ, ngoài ra còn dùng làm thuốc chữa bệnh phụ khoa, chữa đàn ông liệt dương, chữa các bệnh dạ dày, nhất là nó còn có hiệu lực để chữa bệnh chậm lớn của trẻ em. Vỏ ngâm rượu cũng dùng chữa bệnh tê thấp.
Rễ và cành lá dùng chữa: 1. Cảm mạo sốt cao, ho, đau ngực; 2. Đau lưng, phong thấp đau nhức khớp; 3. Đau dạ dày, viêm ruột, đau bụng tiêu chảy; 4. Vàng da, viêm túi mật; 5. Sỏi niệu đạo, bạch đới; 6. Gãy xương, viêm tuyến vú.
Dùng 30 - 60g, sắc uống. Dùng ngoài chữa đòn ngã, eczema, mụn nhọt và viêm mủ da; giã rễ tươi và lá đắp ngoài hoặc nấu nước rửa, tắm.
Cành nhỏ nấu lên rửa, tắm chữa ngứa, ghẻ. Rễ và lá của nó cùng với hoa cúc trắng giã nhỏ đắp mụn nhọt và nứt kẽ chân cũng có công hiệu.
Phân hạng: EN A1a,c,d + 2c,d
Biện pháp bảo vệ: Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "bị đe doạ" (T). Lưu ý bảo vệ triệt để hơn vùng rừng núi đá vôi Trùng Khánh (Cao Bằng). Chỉ khai thác cây có đường kính trên 1,5 cm; chừa lại gốc 10 cm để tái sinh. Khuyến khích trồng thêm làm bờ rào vườn và nương rẫy; trồng bằng cành và hạt.
Tài liệu dẫn: CCVN, 2: 648; FGI, 2: 1166; SFV, 2: 16; SMP, 1: 14; SĐVN (2007): 83; TĐCT: 850.